Trang nhà LƯƠNG Y PHAN CÔNG TUẤN

Sinh phần anh cất nơi đây

Lan man y dược, cỏ cây quê nhà

Cám ơn người đã ghé qua !

“Trạng nguyên Y lâm” CUNG ĐÌNH HIỀN – Y đức cảm động trời xanh

22/02/2025

Vào thời nhà Minh, dưới triều Vạn Lịch, huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc đã xuất hiện một vị “Trạng nguyên y học” độc nhất vô nhị trong lịch sử, tên là Cung Đình Hiền. Tác phẩm của Cung Đình Hiền như Thọ Thế Bảo Nguyên, Vạn Bệnh Hồi Xuân, Dược Tính Ca Quát… được phổ biến rộng rãi và có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ thầy thuốc Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Một minh chứng nhiều người còn nhớ câu truyền khẩu “học y Thọ Thế, học lễ Thọ Mai”…

Y lâm trạng nguyên

Cung Đình Hiền 龔廷賢 (1522–1619), tự là Tử Tài子才, hiệu là Vân Lâm 雲林. Từ nhỏ, ông đã theo đuổi con đường Nho học, chăm chỉ ôn luyện để tham gia khoa cử và am hiểu sâu sắc kinh điển Nho gia. Tuy nhiên, do không đỗ đạt trong khoa cử, ông lại đặc biệt yêu thích nghề y nên quyết chí nối nghiệp cha, trở thành một danh y tài giỏi.

Cha của ông, Cung Tín, hiệu là Tây Viên, nổi tiếng là người tài hoa và học vấn uyên bác, vừa là nho sĩ vừa là thầy thuốc được mọi người kính trọng, từng đảm nhận chức vụ y quan trong Thái Y Viện và được giới y học tôn sùng. Dù hai cha con đều được ca ngợi là những bậc thầy trong giới y học, nhưng người đời vẫn nói: “Đã nghe danh Tây Viên, càng phục con ông ấy.” Điều này cho thấy Cung Đình Hiền đã vượt qua cả cha mình, đạt đến đỉnh cao trong nghề y, đúng là hổ phụ sinh hổ tử.

Danh hiệu Trạng nguyên y học (hay Y lâm Trạng nguyên- 醫林狀元)mà Cung Đình Hiền được ban tặng là nhờ ông đã chữa khỏi bệnh cho Vương phi của Lỗ Vương. Vào mùa thu năm Vạn Lịch thứ 21 (1593), Vương phi họ Trương mắc phải chứng cổ trướng (bệnh bụng phình to). Lỗ Vương đã tìm đến các danh y và thầy thuốc giỏi khắp nơi, nhưng dù đã thử đủ loại thuốc và phương pháp, bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Khi Vương phi lâm vào tình trạng nguy kịch, mọi người đều hoang mang và bất lực.

Lúc này, có người tiến cử Cung Đình Hiền, và Lỗ Vương đã lập tức phái quan đến tận nhà để mời ông đến chữa trị. Chỉ sau một hai thang thuốc của Cung Đình Hiền, bệnh tình đã có chuyển biến kỳ diệu. Ông tiếp tục duy trì điều trị, và bệnh tình của Vương phi ngày càng thuyên giảm. Sau mùa đông, đến mùa xuân, bệnh của Vương phi đã hoàn toàn khỏi hẳn từ lúc nào cũng không hay biết.

Lỗ Vương vô cùng khâm phục, ca ngợi ông là danh y đứng đầu thiên hạ  (Thiên hạ y chi khôi – 天下醫之魁), cho rằng dân nước Lỗ xưng tụng ông là Lỗ Biển cổ đại (so sánh với danh y Biển Thước của nước Lỗ thời cổ) cũng không hề quá lời. Để vinh danh ông, Lỗ Vương đã trao tặng danh hiệu và dựng bảng vàng đề chữ Y lâm Trạng nguyên.

Y quốc y dân

Vào năm Gia Tĩnh thứ 35 (1556), Vương tử Chu Cần Đào của Hải Dương Vương vừa được phong vương. Đúng vào thời điểm mùa hè nóng bức, trong lúc bận rộn với nghi lễ sắc phong, ông vì mệt mỏi mà ngã bệnh. Bệnh tình của ông do đàm hỏa gây ra, xuất hiện các triệu chứng như: chóng mặt, khó thở, ho khan, sưng đau đầu gối và ngón chân, không thể đi lại, bệnh kéo dài quanh năm khiến ông đau đớn vô cùng.

Trưởng tử của ông đã mời nhiều danh y đến chữa trị nhưng tất cả đều thất bại, căn bệnh trở thành mãn tính, dai dẳng suốt ba mươi năm.

Đến tháng 5 năm Vạn Lịch thứ 14 (1586), bệnh lại tái phát nghiêm trọng, đe dọa tính mạng. Trưởng tử của ông, vì lo sợ, ngày đêm cầu trời thay cha gánh chịu nhưng vẫn không tìm được phương cứu chữa.

May mắn thay, đúng lúc ấy, Cung Đình Hiền đang ở Khai Phong. Hải Dương Vương lập tức trọng lễ mời ông về chữa trị. Sau khi cẩn thận chẩn đoán và kê đơn, thuốc của ông có hiệu quả ngay lập tức.

Chỉ chưa đầy mười ngày, bệnh tình đã thuyên giảm, thêm mười ngày nữa có thể xuống giường đi lại, và chỉ sau ba mươi ngày, ông hoàn toàn hồi phục như xưa.

Hải Dương Vương kinh ngạc thốt lên: “Ôi! Thật là thần kỳ! Đây hẳn là bậc thánh trong y thuật!” Ông còn ca ngợi rằng: “Chữa nước chữa dân, lương y chẳng khác gì lương tướng!” (Y quốc y dân, hà thiểm ư lương tướng hồ? – 醫國醫民,何忝於良相乎?).

Ngay khi Cung Đình Hiền đang điều trị căn bệnh lâu năm cho Hải Dương Vương, tại vùng Khai Phong bất ngờ bùng phát một trận dịch gọi là “Đại Đầu Ôn” (một loại ôn độc do cảm nhiễm phong ôn thời độc tà khí xâm phạm Phế Vị mà phát bệnh. Triệu chứng điển hình: mặt sưng đỏ hoặc họng sưng đau. Nặng thì thấy tai điếc, cấm khẩu, hôn mê nói sảng…). Căn bệnh này thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân và trở thành bệnh nhiệt vào mùa hè, nguyên nhân do con người bị nhiễm phải tà khí bất chính. Bệnh này lây lan nhanh chóng, khiến rất nhiều sĩ dân tử vong, các ngõ xóm bị lây nhiễm lẫn nhau, thậm chí có gia đình bị xóa sổ hoàn toàn.

Trong khi các thầy thuốc khác đều bất lực trước căn bệnh quái ác này, Cung Đình Hiền đã dày công nghiên cứu và bào chế thành công một phương thuốc bí truyền mang tên Nhị Thánh Cứu Khổ Hoàn”. Phương thuốc này chỉ sử dụng 2 vị thuốc: Nha tạo (quả Bồ kết) để khai thông các khiếugiải tà khí từ bên ngoài, Đại hoàng để tả hỏathông lợi bên trong.

Chỉ cần uống một liều, người bệnh sẽ ra mồ hôi, và sau khi ra mồ hôi, bệnh sẽ lập tức khỏi. Với những người có thể trạng khỏe mạnh, thuốc này đạt hiệu quả trăm phát trăm trúng. Đối với những người cơ thể yếu đuối, có thể dùng Nhân sâm để bồi bổ giải độc trước. Nếu bệnh chưa khỏi, chỉ cần uống thêm Ngưu bàng cầm liên thang là có thể bình phục hoàn toàn.

Nhờ phương thuốc kỳ diệu này, số người được ông cứu sống không thể đếm xuể. Cảm kích trước tài năng và công đức của ông, Trung Trinh Cát, là tuần phủ Hà Nam (sau được thăng làm Thượng thư Bộ Công) đã tiến cử ông giữ chức Lại mục Thái Y Viện.

 

Sáng ngời y đức, biên soạn y thư

Không chỉ nổi danh với tài năng y thuật, Cung Đình Hiền còn là tấm gương về y đức. Ông luôn giữ vững chí hướng “Thông đạt thì làm tướng giỏi, không thông đạt thì làm lương y” và hành nghề y suốt hơn sáu mươi năm. Dù cả đời không đỗ đạt trong khoa cử, nhưng ông vẫn được các vương hầu, công khanh kính trọng và quý mến. Họ thường xuyên lui tới thăm hỏi, tặng thơ, đề biển để vinh danh ông, không ngớt lời ca ngợi.

Không chỉ giới quyền quý, mà ngay cả các hàn lâm tiến sĩ cũng hết lòng kính phục và viết lời tựa cho các tác phẩm y học của ông để ca ngợi tài năng và y đức của ông.

  • Khi viết lời tựa cho cuốn “Lỗ Phủ Cấm Phương”, Hải Dương Vương đã nhận xét: “Ta từng nghe về bốn tác phẩm của Cung đại phu: Cổ Kim Y Giám, Vạn Bệnh Hồi Xuân, Chủng Hạnh Tiên PhươngVân Lâm Thần Cấu đều được lưu truyền rộng rãi trong thiên hạ, đủ thấy lòng nhân hậu và tấm lòng quảng đại của ông.”
  • Tiến sĩ Lưu Tự Cường của triều Minh, khi viết lời tựa cho Cổ Kim Y Giám, đã viết: “Cung đại phu lấy đạo y trị người, mở rộng lòng nhân, dẫn thiên hạ bước vào vùng đất của nhân thọ.”
  • Lưu Tuần, từng giữ chức Trung Đô tại Thuận Thiên Phủ, ca ngợi trong lời tựa của “Cổ Kim Y Giám” rằng: “Tấm lòng nhân ái của Cung đại phu thể hiện rõ trong từng trang sách, mang lại lợi ích lớn lao cho thiên hạ.”
  • Tiến sĩ Mao Khôn của triều Minh viết trong lời tựa của “Vạn Bệnh Hồi Xuân”: “Cung Đình Hiền xứ Kim Khê, hiệu Vân Lâm, nối nghiệp y thuật gia truyền, từng đi du hành đến Đại Lương. Khi dịch bệnh hoành hành, các danh y trong vùng đều cúi đầu trước tài năng của ông.”
  • Thượng thư Bộ Hình thời Vạn Lịch, Thư Hóa, khi viết lời tựa cho “Vạn Bệnh Hồi Xuân” đã thốt lên: “Thật là người nhân từ và hiếu thuận! Cung đại phu tuy không nổi danh vì khoa bảng, nhưng đức nhân bác ái của ông đã lan tỏa khắp nơi.” Ông còn ca ngợi rằng: “Ông đã tiếp nối chí nguyện của cha mình, mở rộng lòng nhân từ. Như câu thơ xưa từng nói: ‘Người con hiếu không bao giờ cạn đức, phúc lành mãi truyền cho đời sau’, chính là để nói về Cung đại phu vậy.”

Trong suốt cuộc đời, Cung Đình Hiền đã biên soạn nhiều tác phẩm y học quan trọng, tiêu biểu gồm:

  • Tế Thế Toàn Thư (8 quyển)
  • Vân Lâm Thần Cấu (4 quyển)
  • Vạn Bệnh Hồi Xuân (8 quyển)
  • Thọ Thế Bảo Nguyên (10 quyển)
  • Chủng Hạnh Tiên Phương (4 quyển)
  • Lỗ Phủ Cấm Phương (4 quyển)
  • Y Học Nhập Môn Vạn Bệnh Hành Yếu (6 quyển)
  • Tiểu Nhi Thôi Nã Bí Chỉ (3 quyển)
  • Nhãn Phương Ngoại Khoa Thần Nghiệm Toàn Thư (6 quyển)
  • Bản Thảo Bào Chế Dược Tính Phú Định Hành (13 quyển)

Ngoài ra, Cung Đình Hiền còn kế thừa phụ thân, tục biên soạn cuốn Cổ kim y giám (古 金 醫 監, 1589). Trong số này, hai tác phẩm Vạn Bệnh Hồi XuânThọ Thế Bảo Nguyên được lưu truyền rộng rãi nhất. Hai sách này phân tích lý thuyết bệnh lý, triệu chứng và phương pháp điều trị, đồng thời đính kèm hơn 400 bài ca về tính dược các vị thuốc (Dược tính ca quát tứ bách vị 藥 性 歌 括 四 百 味).

Tấm lòng thanh cao và đức độ đáng kính

Về nhân cách và phẩm hạnh của Cung Đình Hiền, Từ Nhữ Dương – Bố chính Chiết Giang – đã ghi chép rất chi tiết trong tác phẩm “Tự Vân Lâm Chí Hành Ký – 敘雲林志行紀”.

Ông nhận xét: “Cung Đình Hiền sinh ra đã thông minh, nhân hậu và hiếu thảo là trời phú. Tấm lòng rộng mở, học vấn uyên thâm, quả là bậc anh tài của thời đại.”

“Tính cách của ông thanh liêm, chính trực, luôn sẵn lòng cứu giúp người khác mà không mong đền đáp. Dù có người biếu tặng vàng bạc mà ông không tiện từ chối, ông vẫn không giữ cho riêng mình, mà dùng số đó để cứu giúp người nghèo trong họ hàng và làng xóm.”

Từ Nhữ Dương đặc biệt nhắc đến lòng hiếu thuận thuần khiết của Cung Đình Hiền. Điều này bắt nguồn từ việc cha ông có chí hướng nhân từ cứu đời, nên ông đã biên soạn hàng chục đầu sách truyền bá ra khắp thiên hạ. Những cuốn sách này giúp mọi người tự xem bệnh và điều trị, kéo dài tuổi thọ, mang lại công đức lớn cho đời sau.

Ngoài ra, vì cha ông rất yêu thương hai người con nhỏ của thiếp, nên Cung Đình Hiền cũng yêu thương các em như cha mình đã từng, coi họ như anh em ruột thịt. Toàn bộ gia sản, ông đều nhường lại cho họ, thậm chí còn tặng thêm ruộng đất để họ có thể sống an nhàn và kế thừa niềm vui từ cha ông.

Không chỉ dừng lại ở gia đình, ông còn nhường tài sản tổ tiên cho người chú, hỗ trợ tài chính cho em trai, xây dựng từ đường để tưởng nhớ tổ tiên, lập gia huấn để dạy dỗ đời sau, dựng cổng lớn làm rạng danh dòng họ, và mua ruộng nghĩa để trợ giúp các thành viên nghèo khó trong tộc.

Cung Đình Hiền không chỉ giữ gìn nhân nghĩa trong gia đình mà còn mang lòng nhân ái với mọi người và xã hội. Ông từng:

  • Hiến thóc gạo cứu đói cho dân, không nỡ nhìn thấy cảnh khốn cùng.
  • Tặng quan tài và chôn cất người xấu số, không nỡ để họ phơi thây ngoài đồng.
  • Cho áo ấm giúp người nghèo vượt qua mùa đông, mà không mong được đền đáp.
  • Kính trọng người tài đức, giữ đúng lễ nghĩa và lòng tin.
  • Giải cứu những người bị bán làm nô lệ, không đòi hỏi sính lễ hay tiền chuộc.
  • Thương xót người góa bụa, cô độc, không tiếc của cải giúp đỡ.

Theo Từ Nhữ Dương, Cung Đình Hiền với lòng thiện âm thầm đã cảm động trời đất, nên ắt sẽ được phúc đức truyền đời, gia đình thịnh vượng lâu dài.

Là một danh y được các bậc vương hầu, công khanh kính trọng, Cung Đình Hiền rất tâm đắc với hai câu nói: “Trong thiên hạ những người tàn tật, bệnh tật đều là huynh đệ của ta.” (từ Trương Tử Tây Minh: 天下疲癃残疾,皆吾兄弟) và “Làm nghề y dược để cứu giúp những người chết yểu” (từ Hàn Tử Nguyên: 为之医药,以济其夭死”).

Suốt đời hành y, ông không bao giờ quên cốt lõi của y đạo. Trong Vân Lâm Hạ Bút (gồm 12 điều), ông viết:

“Y đạo, xưa gọi là tiên đạo, vốn để cứu người. Nay nhiều thầy thuốc không hiểu nghĩa này.”
“Nếu chỉ chăm lo cho người giàu, bỏ bê người nghèo thì không phải là tâm thường tình của người làm y, càng không phải là nhân thuật.”
“Y thuật liên quan đến sinh tử, trách nhiệm vô cùng nặng nề. Phải lấy lòng nhân từ, không phân biệt giàu nghèo, cứu người là âm đức
.”

Là một danh y kiên trì giữ vững y đạo và lòng nhân hiếu, Cung Đình Hiền không chỉ để lại cho hậu thế những phương thuốc thần kỳ và y thuật xuất sắc, mà còn để lại lý tưởng, tấm lòng, phẩm hạnh và đức hạnh mà người làm nghề y nên có.

Tham khảo thêm: https://phancongtuan.com/muoi-dieu-thiet-yeu-cho-thay-thuoc-va-nguoi-benh/

PHAN CÔNG TUẤN chuyển ngữ 22.02.2025

 (Theo: 陰德動天的「醫林狀元」龔廷賢 và một số tài liệu khác)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *