Kỷ niệm 10 năm ngày mất BS.Nguyễn Khắc Viện (10/5/1997 – 2007), khi tôi sực nhớ ra (nhờ đọc mấy bài báo trên mạng) thì đã quá 10 ngày. Liền tắt máy vi tính, đứng dậy lấy cuốn sách NGUYỄN KHẮC VIỆN – TÁC PHẨM, Tập 2: Chân dung & Kỷ niêm (Nxb Lao Động -2003) ra xem.
Đọc lại những bài viết trong tập này, chợt sống dậy trong tôi nhiều kỷ niệm về báo chí sôi nổi một thời khi ngọn gió đổi mới vừa thổi đến cách đây hơn hai mươi năm.
Đối với gã trai quê lần đầu lên tỉnh là tôi thuở ấy, cái thư viện nhỏ bé có bốn năm chục loại báo và tạp chí của trường Thương Nghiệp Đà Nẵng ngày nào là cả một thế giới bao la mở ra bao điều kỳ diệu. Và Ông, chính là một trong những người kỳ diệu mà tôi đã “gặp” qua những bài báo xuất hiện trên tuần báo Văn Nghệ, tạp chí Tổ Quốc và hàng chục tờ báo khác.
Mỗi bài báo của Ông, dù thuộc lĩnh vực nào trong đời sống: thời sự chính trị, văn hóa nghệ thuật, khoa học xã hội, nhân văn hay y học, đều để lại những ấn tượng sâu sắc cho tôi, mở mang đầu óc tôi khám phá ra nhiều điều mới mẻ.
Đọc lại sách nói trên (sđd), có dịp tìm hiểu sâu về cuộc đời sự nghiệp của Ông, cả những tai nạn, oan ức mà Ông gánh chịu, nhưng không đầu hàng, mà luôn tìm cách vượt lên với nghị lực phi thường, trí tuệ sắc bén, kiến thức uyên thâm, kinh nghiệm lịch lãm,và nhất là với một cái tâm trong sáng, tôi càng kính phục Ông hơn.
Trong hơn năm mươi bài viết về Ông, có hàng chục danh xưng mỹ hiệu người đời tôn vinh Ông, nào là nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà dịch thuật, là học giả, thậm chí là nhà bác học, là trí thức chân chính, là sĩ phu thời đại, là kẻ sĩ hiện đại, là sứ giả giữa các nền văn hóa, là con người của giao lưu quốc tế, ông Tổ các môn dưỡng sinh, đá cầu và nghiên cứu tâm lý trẻ em Việt Nam… Nhưng có lẽ mỗi danh hiệu như vậy chỉ là một góc nhìn chứ không ôm chứa trọn vẹn con người thật của Ông.
Bởi vậy, người viết bài này không có tham vọng và cũng không có điều kiện vẽ thêm một chân dung nhà báo Nguyễn Khắc Viện, mà chỉ nhắc lại đôi điều nghe lỏm, học lóm về nghề báo từ Ông, trong cuốn sách trên và vài tài liệu khác, mong đem ra chia sẻ với quý đồng nghiệp nhân ngày Nhà báo VN 21/6 năm nay.
Dưới đây là vài nét biên niên sử hoạt động báo chí của Ông (dẫn theo Đỗ Lai Thúy- Chân trời có những người bay, nxb VHTT, tr.187).
-Từ 1945, bắt đầu viết báo tiếng Việt cho các báo Việt kiều ở Pháp.
-Từ 1950, viết báo tiếng Pháp cho các tạp chí Pháp: Nouvelle, Critique, Democratie nouvelle, Europe, La Pensée, Le Monde Diplomatique (thường ký bút danh Nguyễn Nghệ và Jeune Afrique).
-1952, làm chủ bút tờ Khoa học và ứng dụng, ra ở Pháp nhưng được 3 số thì bị cấm.
-1963, bị nhà cầm quyền Pháp trục xuất về nước, làm ủy viên Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, sáng lập và chủ biên tạp chí Etudes Vietnamiennes, đề xuất và đóng góp nhiều cho tờ Le Courrier du Vietnam ( báo chí đối ngoại của Nhà nước ta).
-1970, là Tổng biên tập của 3 đơn vị: Etudes Vietnamiennes, Le Courrier du Vietnam và Nhà xuất bản Ngoại văn (kiêm giám đốc quản lý) đến khi về hưu (1983).
Sau khi về hưu ông vẫn say sưa hoạt động nghiên cứu và viết lách, có giai đoạn rất tích cực sôi nổi như những năm đầu đổi mới có đến mấy chục tờ báo đăng bài của Ông, nhưng có giai đoạn cực kỳ u ám vì sự nghi kỵ của lãnh đạo đến nỗi không tờ báo nào dám đăng bài Ông.
Nhưng rồi mây đen cũng sớm tan đi, Ông lại tiếp tục viết bài, chủ yếu trên SK-ĐS cho đến những ngày cuối đời. Chùm bài viết trên giường bệnh chờ tử thần đến rước của Ông tôi còn lưu giữ cùng với một số sách báo khác (xem ảnh).
Cảm động nhất là bài báo cuối cùng Câu chuyện đóng đinh vào cột mà câu cuối tôi nhớ như in là “Khám bệnh nhân phải khám toàn diện” và đề rõ giờ viết: 9h ngày 6/5/1997, tức 4 ngày trước khi mất.
Với bề dày hoạt động trong lĩnh vực báo chí như trên, gọi Nguyễn Khắc Viện là nhà báo có lẽ là chính xác nhất. Nhưng với Ông, không bao giờ xem làm báo như một cái nghề chính, chẳng qua đó là cái “nghiệp” mà thôi, như có lần Ông tâm sự:
“Cái may của tôi là lúc bắt đầu làm báo, không ai bắt buộc cả, cũng không phải nộp bài vì ăn lương làm báo; bắt buộc đây là một thứ xung lực bên trong, thúc đẩy phải nói, phải viết…
Mỗi lần cầm bút – nói đúng hơn là ngồi vào máy chữ – là hiện lên trước mắt tôi người đọc; họ hỏi han, chất vấn, cãi lại, thậm chí, có khi còn chửi mắng.
Nghề báo không phải là một kỹ thuật, cho nên cái “nghiệp” thường quan trọng hơn; điểm này thấy rõ ở điều đa số các nhà báo nổi tiếng không xuất thân từ các trường dạy nghề làm báo. Họ viết vì tự trong lòng, họ có cái gì để nói với người đọc” (sđd tr.198).
Một một lần khác, Ông phát biểu: “Báo chí không còn chỉ có cung cấp tri thức, mà còn giúp bạn đọc nâng cao nhận thức và ý thức về nhiều vấn đề: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Mua báo, đọc báo để biết tin, và để đọc – nhiều khi phải đọc đi, đọc lại – bình buận về tin ấy. Người đọc chờ đợi nhất ở những nhà báo có tiếng nhận xét, dự đoán, nêu ý kiến. Đưa một tin chỉ vài dòng, một nhà báo giỏi cũng có thể bình một vài lời gợi ra nhiều ý nghĩ” (sđd tr.191).
Về bình luận báo chí, ông còn nói thêm: “Không bắt buộc xảy ra với tầm cỡ quy mô lớn, với tính ly kỳ hay giật gân, nhà báo có thể từ một tình tiết tưởng là nhỏ, rút ra những kết luận quan trọng” (sđd tr.192). (Nên nhớ có nhà nghiên cứu nước ngoài từng đánh giá Ông là “một nhà bình luận cực kỳ nhạy cảm” (sđd tr.142)).
Ông thường yêu cầu nhà báo phải tư duy độc lập: “Chưa suy nghĩ độc lập, chưa thể trở thành nhà báo” (Tham luận Hội thảo in trong tập Truyền thông hổ trợ phát triển, Nxb Sách Giáo khoa Mac-Lê Nin, 1986, tr.118). Có lúc Ông nói rõ hơn: “Nếu những tri thức nhà báo cung cấp cho bạn đọc rút từ các công trình khoa học, thì những nhận xét sắc bén lại xuất phát từ các đường lối chính sách của lãnh đạo và những ý kiến rải rác trong quần chúng, thường gọi là dư luận. Nhưng các tri thức khoa học, ý kiến của lãnh đạo hay quần chúng đều được người làm báo nghiền ngẫm, tiêu hóa, biến thành của mình, như con ong hút nhụy từ nhiều bông hoa khác nhau để gây một loại mật riêng” (sđd tr.192).
Ông rất coi trọng công tác sưu tầm và sử dụng tư liệu, và có lời khuyên cụ thể: “Đừng bao giờ trong báo chí còn có những câu lơ lửng kiểu: “Báo Mỹ cũng thú nhận rằng…, mà không biết lúc nào, ngày nào, ai viết” (sđd tr.189).
Về nghệ thuật, phong cách viết báo, Ông nhấn mạnh: “Nghề báo trước hết là nghề văn”.
“Không có cái dấu ấn riêng của người viết, không thể trở thành bài báo hay, không có phong cách riêng không thể thành nhà báo”.
Ông có nhận xét: “Báo chí của ta hiện nay thường viết bằng bút gỗ. Vì sao? Vì số đông anh chị em không được học những bài văn hay”. Và Ông đã nhiệt tình “mách lại với các nhà báo trẻ: nếu chưa thật thuộc Kiều, ca dao, Cung oán, Chinh phụ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, và cả thơ lãng mạn, thì tìm ngay mà đọc, mà nghiền ngẫm, mà ngâm nga”.
Nhà báo kỳ cựu Phan Quang, khi dẫn lại mấy câu trên trong bài “Nguyễn Khắc Viện: tự trong lòng” (sđd tr.193) đã thốt lên: “Thật thú vị! Tôi chưa hề đọc một giáo trình báo chí nào khuyên những người làm báo cần nghiền ngẫm thơ ca lãng mạn”!
Nói về văn bút Nguyễn Khắc Viện, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong bài Gừng đất Nghệ, có nhận định sâu sắc về văn phong báo chí tiếng Pháp, nhưng có lẽ cũng đúng với cả báo chí tiếng Việt của Ông, rất đáng để những người làm báo hôm nay tham khảo học tập:
“Văn Ông viết thì đến Tây cũng nể. Vấn đề không chỉ ở chỗ đọc thông viết thạo, mà là sự nghiệm sinh với từng con chữ. Chữ nghĩa có đời sống của nó.
Làm sách báo tiếng Tây ở Việt Nam, thầy đồ Nghệ (NKV) phá vỡ thứ “ngôn ngữ gỗ” bấy giờ còn thống trị ở (Nxb) Ngoại văn. Ông thế vào đó những ngôn từ uyển chuyển, sống động, nồng hơi phố phường, đồng ruộng. Ông cũng thay thế cả cách trình bày bài bản, khẩu khí lên lớp bằng lối kể chuyện hóm hỉnh, xen lẫn những đối thoại, hồi ức của người làm chứng một thời. Có thể nói đóng góp đầu tiên và quan trọng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trong văn bút là écriture (cách viết, bút pháp) của Ông. Một cách viết đầy cá tính, phong cách tư duy trong sáng, linh hoạt, tầm văn hóa rộng và chiều sâu tư tưởng. Chính kiến, phong tục, thị hiếu có thể làm người ta thích hay không thích cái viết; thời gian có thể làm mèm cũ cái viết. Nhưng cách viết của những đại bút sẽ tồn tại mãi mãi.” (sđd tr.42).
Người viết bài này, dù chỉ tập tểnh làm báo nghiệp dư cho tạp chí chuyên ngành, nhưng thú thật rất mê và thấm thía với những lời khuyên chí lý của Ông, vì có đôi lần may mắn áp dụng thành công vài phần các bài học đó.
Nhưng đó không phải là điều quan trọng.
Có một điều ngẫu nhiên lạ lùng và thú vị mà người viết muốn chia sẻ với bạn đọc, là khi đọc đến đoạn cuối bài của cô cháu gái Ngân Hà viết ở trang 378, tôi mới phát hiện ra ngày Ông vĩnh viễn ra đi là mồng Bốn tháng Tư âm lịch. Đang nằm đọc sách trên giường, tôi bật ngồi dậy, chạy ra gỡ lịch xem. Thì ra ngày Chủ nhật 20/5/07 hôm ấy, ngày mà sau khi đi bầu cử Quốc Hội về, cả một ngày tôi không dứt ra được cuốn sách viết về Ông, mới đúng là ngày giỗ thứ mười của Ông.
Mượn bàn thờ Y tổ, tôi đã thành kính thắp một nén nhang tưởng niệm một bậc thầy chưa hề giáp mặt.