NĂM 1984, HỘI KHOA HỌC HOÀNG GIA ANH (TỨC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VƯƠNG QUỐC ANH) CÙNG CÁC NHÀ BÁC HỌC VỀ LỊCH SỬ QUÂN SỰ THẾ GIỚI ĐÃ NHẤT TRÍ BẦU CHỌN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN LÀ 1 TRONG 10 DANH TƯỚNG QUÂN SỰ CỔ KIM TOÀN THẾ GIỚI. THẾ NHƯNG ÍT AI BIẾT NGÀI KHÔNG CHỈ LÀ DANH TƯỚNG MÀ CÒN LÀ MỘT LƯƠNG Y. MỜI QUÝ ĐỒNG NGHIỆP ĐỌC LẠI BÀI VIẾT CỦA GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG, MỘT TRONG TỨ TRỤ SỬ GIA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI, ĐĂNG TRONG TẬP SAN “CHÂM CỨU SÔNG BÉ” XUẤT BẢN CÁCH ĐÂY HƠN 30 NĂM. HY VỌNG MỘT NGÀY KHÔNG XA, TÔN TƯỢNG CỦA NGÀI SẼ ĐƯỢC GIỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM ĐƯA VÀO THỜ PHỤNG UY NGHIÊM TRONG CÁC Y MIẾU HAY NHÀ THỜ Y TỔ TRÊN CẢ NƯỚC.
Phù điêu Đức Thánh Trần cùng tôn tượng chư Y tổ Tuệ Tĩnh Thiền sư, Hải Thượng Lãn Ông … đã được đưa vào thờ phụng trong Y miếu tại Bệnh Viện Y Học Cổ Truyền Đà Nẵng
ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG CŨNG LÀ LƯƠNG Y
(Bài của GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG, viết riêng cho Châm Cứu Sông Bé số Xuân Nhâm Thân 1992)
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con trai thứ của An Sinh Vương Trần Liễu (anh là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung, tức Tuệ Trung thượng sĩ, sinh năm 1230), năm sinh chưa rõ (năm 1258 ngài đã cầm quân đánh giặc Mông Cổ, nên ta đoán ngài sinh khoảng 1231 – 1240).
Ngài là bậc đại anh hùng dân tộc, đã 3 lần cầm quân cùng cả nước đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên (1257-58, 1284-85,1287-88) khét tiếng cả hoàn cầu.
Vì vậy, năm 1984, Hội khoa học hoàng gia Anh (tức Viện Hàn lâm khoa học vương quốc Anh) cùng các nhà bác học về lịch sử quân sự thế giới đã nhất trí bầu ngài là 1 trong 10 danh tướng quân sự cổ kim toàn thế giới.
Ngài là bậc thiên tài quân sự, lại có đức độ lớn, yêu thương từ cỏ cây, loài vật (như con voi chiến bị sa lầy ở bờ sông Hóa)* đến con người, biết dùng người tài, từ bậc thấp thỏi gia nô (Yết Kiêu, Dã Tượng) đến người bình dân (Phạm Ngũ Lão bên võ, Trương Hán Siêu bên văn), vì nước trước vì nhà (bỏ thù nhà vì nghĩa lớn quốc gia). Ngài lấy hiệu là “HƯNG ĐẠO (dấy lên Đạo học) là không chỉ chăm chút việc Đời mà còn săn sóc đời sống Tâm Linh của con người. Cho nên khi qua đời (1300) dân chúng thờ Ngài, suy tôn Ngài là Đức Thánh Trần, đức thánh Cha, ngày giỗ của ngài (20 tháng Tám lịch trăng) là ngày lễ hội lớn ở vùng Kiếp Bạc xứ Hải Đông miền biển:
“Tháng tám giỗ Cha (Hưng Đạo)
Tháng ba giỗ Mẹ (Liễu Hạnh)”
Dân chúng đời đời nhớ ngài: “sinh Tức Mặc, cư Trần Thương, thác Kiếp Bạc”*
Nhiều nơi trong nước, chứ không riêng gì Trần Thương, Kiếp Bạc… đều có đền thờ Ngài, theo triết lý :
“Sinh vi danh tướng, tử vi thần”
Người dân thường vùng quê Bắc bộ và cả nước tin tưởng rằng, dù đã thác, nhưng dư uy của ngài vẫn thiêng liêng cùng thanh thần kiếm, có tác dụng trừ tà ma, ác quỷ, độ thể cứu dân, đặc biệt trừ được bệnh sản hậu của đàn bà nước Nam do tên yêu quái Bắc phương Phạm Nhan quấy nhiễu (chuyện này, nếu có điều kiện, sẽ xin thưa gửi sau về chi tiết).
Nay chỉ nói đến việc 12 năm cuối đời ngài rút việc triều đình trung ương, lui về Vạn Kiếp.
Năm 1289, nhân dịp kỷ niệm 1 năm đại thắng Bạch Đằng giang, ngài được vua Trần tấn phong HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG, là danh tước tột bậc triều đình.
Đúng lúc đó ngài xin vua rút khỏi triều đình trao quyền cầm quân cả nước cho tướng Phạm Ngũ Lão.
Ngài trở về Vạn Kiếp nghỉ ngơi, tu Đạo (ngài trở thành vị tổ của Đạo Nội nước Nam). Ngài làm 3 việc :
– Một là viết một cuốn sách “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” trao cho con cháu cất giữ lưu truyền mà không đem công khai in ấn ở đời. Vì thế, cuộc đời ngài, đời thường và đời đạo, khi còn sống cũng như khi đã thác, vẫn giữ lại nhiều điều bí nhiệm. Nếu Trần Nhân Tông (rời ngai vàng sau ngài một năm) là người cũng về miền xứ Đông Yên Tử tu đạo và sáng lập thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử thì ngài về xứ Đông sáng lập Đạo nội (là Đạo giáo Việt Nam) đời Lê – Nguyễn ngày sau còn phồn thịnh.
– Hai là cùng thượng hoàng Nhân Tông 2 vị anh hùng kháng chiến cái thế chống gây đi thăm dân han hỏi dân tình, cảnh cáo, khuyên răn bọn cường hào tham quan ô lại và thỉnh thoảng ghé lại triều đình Thăng Long góp ý cho vua trẻ Anh Tông.
Ngài cùng thượng hoàng sống gần dân, thân dân nên cuối đời, ngài đã có lời di chúc cao cả cho vua Anh Tông và cho mọi người chịu trách nhiệm coi dân, giữ nước:
“Nới sức dân là thượng sách giữ nước”
– Cuối cùng và trước hết, ngài thấy 30 năm chiến tranh dù là chiến tranh chống xâm lược đã làm hao tổn nhân lực, 2 năm hậu chiến lại mất mùa, đói lớn (“đại cơ”), dân chết chồng chất lên nhau ; ai còn, thì cũng ốm yếu.
Ngài lui về Vạn Kiếp, hai bên tả hữu dinh (nay là đền) là hai dải núi Nam Tào, Bắc Đẩu, ngài biến thành hai ngọn Dược Sơn (núi thuốc). Trên 2 đỉnh núi ấy, ngài cho dựng nhà, thu hái, chế biến và bảo quản thuốc từ cây cỏ dã sinh và trồng thêm nhiều loại cây thuốc quý. Ngài là bậc tiên khu – trước cả thiền sư Tuệ Tĩnh – giương cao ngọn cờ:
“Người Nam theo Đạo Nam” (Đạo nội)
“Người Nam dùng thuốc Nam” (cây nhà lá vườn).
Dinh cơ của ngài, cũng như Đền Kiếp Bạc ngày sau, trở thành một cơ sở chữa bệnh và phát thuốc cho dân. Dân nghèo, dân bệnh đổ xô nhau về Vạn Kiếp xin đức Hưng Đạo đại vương, đức Thánh Trần khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc.
Chữa bệnh bằng ÂN – UY, bằng LẤY KHƯỚC (ngoại cảm) – không hẳn dị đoan như người ta tuởng trước đây.
Chữa bệnh bằng CHÂM CỨU, bằng VỌNG VĂN VẤN THIẾT, bằng CƠM CHÁO chẩn bần và phát không các thang thuốc Nam.
Sáu trăm năm sau, Viện y học dân tộc cử một đoàn lương y tới khảo sát núi thuốc Kiếp Bạc còn thu lượm hơn 600 loại cây thuốc còn trường sinh trên hai dãy Dược Sơn.
Và ĐỀN KIẾP BẠC nơi thờ ngài, nơi mùa thu tới dân nô nức đến chiêm bái và ăn mày lộc đức thánh Trần, vẫn vĩnh viễn tỏa hương thơm ngát…