TỴ LOẠN
08/08/2025
THƠ CHỮ HÁN HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG 9
TỴ LOẠN – 避亂
CHẠY LOẠN

Xuất xứ: Đầu bài thơ này tác giả có ghi: “Khi giặc Nhưỡng tập hợp quân cướp phá huyện Hương Sơn, tôi đưa gia quyến về phía Nam núi Thành để lánh nạn”. Trong Y âm án số 4 tác giả có viết rõ hơn: “Tháng tư năm Đinh Hợi (1767), giặc ở Trấn Ninh kéo đến cướp phá Hương Sơn, quân giặc đóng doanh trại kéo dài vài dặm, voi ngựa hàng đàn. Lúc bấy giờ quân nhà vua quen yên ổn không phòng bị, và quân ít thế yếu đến nổi thất thủ. Tôi vội vàng tôi mang được người nhà liều mình chạy trốn, may mà cả nhà yên lành chạy thoát, đến trọ ở thôn Nhân Hưng dưới chân núi Thành, chỉ lấy nghề thuộc làm kế sinh nhai”.
Nguyên văn và phiên âm :
皓煇煙火雜雲靡 Hạo huy [1] yên hỏa tạp vân mi [2],
携抱兒孫處處依 Huề bão nhi tôn xứ xứ y.
四壁圖書秦熖起 Tứ bích đồ thư Tần diễm khởi,
半山松菊禳塵 飛 Bán sơn tùng cúc Nhưỡng trần phi.
空囊不用琴前利 Không nang bất dụng cầm tiền lợi,
壯志徒劳酒後詩 Tráng chí đồ lao tửu hậu thi.
剩喜一腔仁術在 Thặng hỷ nhất xoang nhân thuật tại,
幾經顚沛未曾遺 Kỷ kinh điên bái vị tằng di.
Dịch nghĩa:
Mịt mù khói lửa dày đặc trong mây,
Dắt díu con cháu nương tựa chỗ này chỗ khác.
Sách vở bốn vách đều bốc lửa Tần,
Cúc từng nửa núi bay đầy bụi giặc Nhưỡng.
Túi tuy rỗng, không dùng lợi trước tiếng đàn,
Chí hùng tráng chỉ đổ vào thơ sau khi uống rượu.
Mừng rằng vẫn còn một lòng nhân thuật,
Đã trải qua bao nhiêu lao đao chưa hề để sót.
Dịch thơ:
Ầm ầm khói lửa ngút trời,
Dắt con bồng cháu tìm nơi lánh mình.
Phòng văn lửa cháy tan tành,
Lưng đồi tùng cúc nửa thành tàn hoang.
Túi không nhưng vẫn cứ đàn,
Chí xưa đã lỡ rượu tràn lại thi.
Mừng thầm cò chút nghề y
Đã từng nghiêng ngửa chưa khi nào rời.
(Nguyễn Thanh Giản, Tử Siêu, Nam Trân dịch)
Bản dịch khác:
Mịt mờ khói lửa lẫn mây trời
Dắt cháu dìu con lánh khắp nơi
Bốn vách sách tranh lửa tần bốc
Lưng non thông cúc bụi quân rơi
Đàn tơ chẳng thể cho đầy túi
Thơ rượu càng suông chí lớn thôi
Mừng chút nghề nhân còn giữ được
Bao phen nghiêng ngả chửa phen đời
(Bùi Hạnh Cẩn dịch)
Nhoáng nhoàng lửa khói mịt mờ mây
Ẵm cháu dìu con khắp đó đây
Sách vở bốn bề lan lửa cháy
Cúc tùng nửa núi bụi bay đầy
Dạo đàn túi rỗng không màng lợi
Tàn rượu thơ tràn chí lớn say
Mừng vẫn nghề y nhân thuật vững
Trải bao lận đận chẳng lung lay
(Phan Công Tuấn dịch)
[1] Huy: Chữ này trong bản in quá mờ, không biết có phải là chữ “huy” hay chữ gì khác? Xin ghi để chất chính cùng các vị có quyển chữ được rõ hơn. (Nguyên văn chú thích trong tập Y HUẤN CÁCH NGÔN, NXB Y học và Thể dục Thể thao, 1964). Chúng tôi tạm theo bản trên phiên chép là chữ huy 煇. Mong các bậc thức giả kiểm tra hiệu chính giúp.
[2] Mi: Chữ cuối câu này trongnguyên bản khắc gỗ là 𩄲 , nhưng chúng tôi tra trong các tự điển chữ Hán đều không có tự dạng chữ này (chỉ có trong chữ Nôm, đọc là mây). Chúng tôi nghi là chữ mi 靡 đã khắc nhầm thành 𩄲 (mây, là chữ Nôm), như vậy cụm từ 雲靡 mới có ý nghĩa “như mây phân tán lan rộng khắp nơi (雲靡 如雲之分散。謂廣布。). Mong nhận được thêm ý kiến của các học giả. (P.C.T).
Ứng dụng Google store
Cây thuốc Đà Nẵng
Lượt truy cập
- Đang online: 0
- Hôm nay: 72
- Tất cả: 52297
