Đỗ hành, Đỗ nhược… tìm mướt mồ hôi
08/07/2025
ĐỖ HÀNH, ĐỖ NHƯỢC … TÌM MƯỚT MỒ HÔI
Sau khi CTQ số 89 phát hành, một bạn đọc gọi điện thoại nhờ tôi giải đáp thắc mắc, ấy là chị đã mang toa thuốc trong bài báo “Làm da tự tỏa hương” (tr.14) đi khắp thành phố Quy Nhơn, nhưng chẳng có hiệu thuốc nào có bán các vị thuốc Đỗ hành, Đỗ nhược và Huân thảo.
Nghe lời khẩn khoản của chị mà tôi … đỏ mặt tía tai, lúng búng một hồi đành thưa thiệt là mình chưa từng nghe đến, đừng nói là từng thấy hay từng dùng mấy vị thuốc đó. Theo tôi, rất có thể đó là những vị thuốc ít được thường dùng mà người trong nghề gọi là “viễn vị”, hoặc là thuốc thảo dược, tức là dạng như thuốc Nam của người Trung Quốc. Tôi mách nước thêm cho chị nên liên hệ với Tòa soạn CTQ, xin số điện thoại của tác giả bài báo nhờ giải đáp là chắc ăn nhất.
Quả bóng trách nhiệm vừa được đẩy đi, tưởng sẽ yên ổn, nhưng liền có một quả bóng khác đến thế chỗ. Đó là lỗ hổng kiến thức chẳng dễ gì che đậy được. Ban đầu nó chỉ hơi cồm cộm, nhưng mỗi lúc một lớn, chẳng mấy chốc căng phồng, khiến tôi cứ thấy tức anh ách, như vừa xực phải một món khó tiêu. Thế là phải quyết định tự mình đi tìm thuốc xổ.
“Muốn tìm nhanh, mời anh lên mạng!”- Thời đại công nghệ thông tin mà, tôi chẳng dại gì không theo. Với từ khóa là tên các vị thuốc, tôi dễ dàng phát hiện bài thuốc kia còn được giới thiệu ít nhất trên 2 tờ báo khác là Phụ nữ Thủ đô và Khoa học & Đời sống . Riêng bài trên KH&ĐS (tr.13, số 46, 10/6/2007, dẫn theo: http://www.vusta.vn/news_detail.asp?id=21358) ký tên BS.Hoàng Ngọc Đại và Nhóm PV có đoạn viết: “BS Đông y Nguyễn Ngọc Lâm (người nổi tiếng dùng Đông Tây y trong loạt bài chữa vô sinh KH&ĐS đã đăng tải) cho biết, đây là các bài thuốc bí truyền từ xa xưa của Trung Hoa nên ngày nay một số vị thuốc “bí ẩn” không tìm thấy. TS. Nguyễn Hữu Khai – Tổng giám độc Tập đoàn y dược Bảo Long cũng khẳng định, mặc dù nghiên cứu hầu hết các sách thư cổ bí truyền của Trung Hoa nhưng ông chưa từng nghe đến Huân thảo, Đỗ nhược, Đỗ hành.”
Thú thật, thoạt nghe nhị vị danh gia tiền bối khẳng định như thế, tôi thấy rụng rời tay chân, cố lang thang thêm một lúc cũng chẳng tìm được gì trên mạng tiếng Việt, đành tắt máy tính trở về trang nhà botay.com (bó tay chấm com).
Nhưng sau một phút định thần, dường như được linh tính mách bảo, biết đâu “nói vậy mà không phải vậy”, nên tôi thử liều mạng tìm cách khác xem sao.

Quay về với tủ sách hom hem của mình, cậy cái lỗ mũi có thâm niên ngửi … giấy, híc híc vài hơi, tôi nhắm mắt vớ lấy bộ sách Dược Tính Chỉ Nam (của Đông y sĩ Nguyễn Văn Minh, NXB Long An in lại năm 1991) lật lật liên hồi. Thật may thay, chẳng mấy chốc thấy … chành ành hai vị thuốc Đỗ hành , Đỗ nhược ở các vị thứ số 561 và 563. Xin chép lại toàn văn như sau, tôi giữ nguyên các câu chữ văn dịch đôi khi nghe không thuận tai lắm.
1. 杜若 ĐỖ NHƯỢC (POLLIA JAPONICA, HORNST)
Đọc thêm các tên khác: Đỗ nhược căn 杜 若 根, Đỗ hành 杜 衡, Bạch liên 白 蓮, Mã đề hương 馬 蹄 香, Đỗ liên 杜 蓮, Nhược chi 若 芝, Bạch cầm 白 芩, Thổ hạnh 土 杏, Sở hành 楚 衡, Trảo tử khương 㺐 子 薑, Sơn khương 山 薑, Hoài hương 懷 香, Hành vi hương 蘅 薇 香, Thổ lổ 土鹵.
Tính chất: Tính chất hơi ấm, vị cay, không độc.
Công hiệu của Đỗ nhược: Chữa được những chứng ở lồng ngực có nghịch khí.
Tính nó ôn trung, chữa được những chứng gió vào trong đầu óc, làm cho đầu đau rức hoặc làm cho sưng đau, chảy nước mắt nước mũi ra. Ai uống nó được lâu thì có thể ích được tinh tủy, thông minh tai mắt, thân thể nhẹ nhàng, an thần định trí, nó làm cho người ta nhớ lâu.
Sách Bản kinh nói rằng:
Tính nó chữa được chứng chóng mặt như quay cuồng, mắt trông như đảo lộn, tất cả các chứng nó làm cho khỏi đau, lại chữa được chứng trong miệng hôi hám.
Nó được Tế tân và Tân di thì càng tốt.
Tính nó ghét Sài hồ và Tiền hồ.
2. 杜衡 ĐỖ HÀNH (ASARUM BLUMEI DUCH WILD GINGER)
Đọc thêm các tên khác: Mã đề hương 馬 蹄 香, Thổ tế tân土 細 辛, Kim tỏa thi 金鎖 匙 , Thổ lỗ 土 鹵, Đỗ quì 杜 葵, Thổ hành 土 蘅, Mộc hạnh 木 杏, Hoài hương 懷香 , Đỗ tế tân 杜 細 辛, Mã đề tân 馬 蹄 辛, Bạt nhi thảo 鈸 兒 艸, Hành vi thảo 行 薇 艸, Đỗ hành quì 杜 衡 葵.
Tính chất: Khí ôn, vị tân, không độc.
Công hiệu của Đỗ hành, tính nó hay thám thổ cho nhẹ nhàng sung sướng, khỏi tức tối hoành cách mô hoặc ở ngực vì đờm rãi đọng trệ dày đặc ở đó.
Tính nó sát được trùng, tiêu tan được những chứng anh lựu loa lịch, nó là một vị thuốc thám thổ.
Chủ trị dược những chứng gió lạnh mà ho hắng, hoặc nấu nước mà tắm làm cho quần áo và người ta ra thơm tho nhẹ nhàng.
Đọc đoạn trích trên, thấy Đỗ hành và Đỗ nhược có mấy cái tên tây tên tàu trùng nhau là lạ, không biết các cụ có nhầm lẫn gì không. “Gì thì gì, học Đông y nên truy bản gốc”! Đó là một bài học tôi rút ra được từ nhiều năm nay. Bởi vậy, để vững tâm, tôi tìm đến danh tác Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân do Thực Dụng Thư Cục xuất bản ở Hồng Công năm 1957. Lại gặp may lần nữa, Đỗ nhược, Đỗ hành đều có chép đủ trong sách này. Lướt qua sách Cương Mục, tôi được biết Đỗ nhược là vị thuốc thượng phẩm có chép trong Thần Nông Bản Thảo Kinh, Đỗ hành được đưa vào lần đầu trong Danh Y Biệt Lục. Thử tra sang một bộ sách hiện đại, tôi biết thêm Đỗ hành có tên khoa học là Asarum forbesii Maxim., là vị thuốc thứ 2094 trong sách Trung Dược Đại Từ Điển (Giang Tô Tân y học viện biên soạn, NXB KHKT Thượng Hải, bản in lần thứ 14, 2002). Còn Đỗ nhược, theo một tài liệu khác trên mạng có tên là Pollia japonica Thunb.
Phần còn lại của bài báo này, xin điểm qua việc truy tìm vị Huân thảo mà tôi cố tình lờ đi nãy giờ. Số là khi xem trong bảng tra tên vị thuốc đầu sách Bản Thảo Cương Mục, sau khi tra tìm được Đỗ hành, Đỗ nhược, đọc mục chữ 18 nét thấy tên Huân thảo 薰 草 ghi trang số 924 (bằng chữ Hán), tôi chắc mẩm là “sự đời không khó như ta tưởng”. Nhưng khi giở đến đúng số trang kia, thì than ôi, chẳng thấy vị thuốc Huân thảo đâu cả. Tôi ngẩn cả người, lạc giữa một biển hàng triệu con chữ hình vuông chi chít trong bộ sách gần hai ngàn trang mà “la bàn” bị hỏng thì biết tìm đâu ra phương hướng? Nếu dò dẫm từng chữ, từng trang thì với sức đọc bập bõm của tôi có họa là đến Tết … Ma rốc mới tìm ra! Tưởng phải bỏ cuộc, nhưng đột xuất cái đầu tối om om của tôi chợt lóe lên một ý nghĩ đoán mò: chắc là chữ số ghi nhầm chi đây, gỉa sử chỉ sai ở số hàng trăm thì có thể là ở các trang 824, 724, 624… Thật không ngờ cái cách dò dẫm thủ công ấy lại phát huy hiệu quả nhanh như …điện. Vừa giở đến trang 524 thì, “Eureka ! ”, tôi muốn reo lên như Archimèd khi phát hiện ra cách tính rợ của mình đã cho đáp số đúng. Quả thật Huân thảo (còn có tên là Linh lăng hương 零 陵 香, Huệ thảo 蕙 草, Hương thảo 香 草,Yến thảo 燕 草, Hoàng linh thảo 黃 零 草) là vị thuốc trung phẩm được đưa vào sách Danh Y Biệt Lục, vốn có chép tên trong bộ sách tối cổ là Sơn Hải Kinh. Trong Trung Dược Đại Từ Điển vị thuốc này là vị thứ 5152, tên khoa học là Lysimachia foenum-graecum Hance , chứng tỏ hiện nay vẫn được sử dụng ở Trung quốc. Xin nói thêm là các sách thuốc vừa nhắc cung cấp rất nhiều thông tin về các vị thuốc, nhưng việc dịch và giới thiệu nó không phải là chủ đích của bài này.
Như vậy, về cơ bản tôi đã tìm thấy được tất cả các vị thuốc cần tìm. Tất nhiên là mới tìm ở trên … giấy. Việc còn lại, mong các nhà khoa học xác định lại cho chính xác, và các nhà kinh doanh nhập khẩu dược liệu nhanh tay tiếp cận thị trường là chắc chắn đáp ứng được nhu cầu của chị em chúng ta đang cần.
Chợt nhớ đến giọng nói khẩn khoản của vị độc giả ở Quy Nhơn, tôi thầm nghĩ, nếu cung cấp kịp thời được nguyên liệu bài thuốc “làm da tự tỏa hương”, biết đâu không chỉ chữa được chứng bệnh cho một người mà có khi còn cứu vãn được hạnh phúc cho cả một gia đình. Tôi nói “biết đâu”, vì hiệu quả bài thuốc thực tình tôi “đâu biết”, do chưa một lần thực nghiệm. Nhưng xin cung cấp thêm thông tin để bạn đọc yên tâm dùng thử (nếu tìm ra đủ thuốc), nếu vào mạng tiếng Hoa gõ các từ khóa “薰 草 Huân thảo, Đỗ hành 杜 衡 , Đỗ nhược 杜 若” thì sẽ thấy bài thuốc này được phổ biến rất rộng rãi cùng với hàng chục bài thuốc tương tự khác, hẹn có dịp CTQ sẽ tiếp tục giới thiệu cùng bạn đọc.
PHAN CÔNG TUẤN
(CTQ số 94, tr.6)

Ứng dụng Google store
Cây thuốc Đà Nẵng
Lượt truy cập
- Đang online: 3
- Hôm nay: 68
- Tất cả: 51805
