Trang nhà LƯƠNG Y PHAN CÔNG TUẤN

Sinh phần anh cất nơi đây

Lan man y dược, cỏ cây quê nhà

Cám ơn người đã ghé qua !

Để hiểu thêm về Đỗ hành, Đỗ nhược

10/07/2025

LTS: Chúng tôi có nhận được một bài viết phản hồi về một bài báo CTQ đã đăng. Nhằm cung cấp cho bạn đọc có thêm nhiều thông tin nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, CTQ xin đăng nguyên văn bài viết này kèm theo thư trả lời của L.Y Phan Công Tuấn. CTQ mong nhận được ý kiến của các thầy thuốc, chuyên gia về dược liệu học, thực vật học tiếp tục thẩm định các vị thuốc đề cập trong các bài viết này.

C.T.Q

Đọc bài “Đỗ hành, đỗ nhược tìm mướt mồ hôi” của lương y Phan Công Tuấn (đăng trên tạp chí Cây thuốc quý số 94 – tháng 10/2007), tôi thấy có nhiều vấn đề cần trao đổi lại. Nhưng trước hết, cũng xin bày tỏ lòng khâm phục đối với lương y, vì để giải đáp thắc mắc của độc giả (bệnh nhân) mà cất công đi hỏi các bác sĩ, tiến sĩ (có cả tiến sĩ tổng giám đốc một tập đoàn y dược nổi tiếng, đã từng “đọc hết” các cổ thư bí truyền của Trung Hoa), rồi lại tham khảo nhiều tài liệu chuyên ngành; để cuối cùng tìm ra được phần ghi chép về đỗ nhược, đỗ hành và huân thảo. Sau đó lương y lại còn đề nghị các nhà khoa học và các doanh nhân hãy mau chóng xác định và nhập ngay những vị thuốc “bí ẩn” này để đáp ứng nhu cầu chị em và cứu vãn hạnh phúc gia đình.

Thiết nghĩ các loại thảo dược này đâu có “bí ẩn”, nên rất dễ tìm. Chỉ cần tra cứu trên cuốn Từ hải (loại từ điển rất thông dụng, rất nổi tiếng của Trung Quốc) là thấy ngay. Sau đây là phần trình bày theo nội dung từ điển:

1) Đỗ hành  (Asarum forbesii)  杜衡

Còn gọi là nam tế tân  南 細 辛, khổ diệp tế tân  苦 叶 細 辛, thuộc họ mã đâu linh 馬 兜 鈴, là loại cây thân thảo lưu niên, các đốt thân ngắn có dạng rễ, phần dưới mọc dày rễ củ. Lá có1, 2 cái mọc ở phần ngọn, có hình trái tim, có cuống dài. Hoa đơn, mọc ở ngọn. Ống hoa bì có dạng cái chuông, bên trong có đường gân dạng lưới. Màu hoa tím sẫm. Đỗ hành phân bố tại các nơi như Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang, An Huy, Hồ Nam (Trung Quốc). Rễ hoặc cả cây dùng làm thuốc. Tác dụng: tán hàn chỉ khái, khứ phong chỉ thống. Chủ trị: các chứng phong hàn, cảm mạo, ho có đàm, đâu đầu, nhức răng, phong thấp.

2) Đỗ nhược (Pollia japorica) 杜若

Còn gọi là trúc diệp liên 竹叶蓮, thuộc họ áp chích thảo  鴨 跖 草, là loại cây thân thảo lưu niên, thân dài có dạng rễ và chạy ngang. Lá không có cuống, phiến lá dài hình bầu dục. Hoa màu trắng, nở vào mùa hè. Hoa tự có dạng đuôi bọ cạp, mọc dày thành cụm hoa hình chóp nón. Quả thuộc loại quả tương, hình cầu, màu xanh đen. Đỗ nhược phân bố tại các vùng trung hạ du sông Trường Giang (Trung Quốc), Triều Tiên, Nhật Bản, bán đảo Trung Nam (gồm Việt na, Lào, Campuchia, Mianma, Thái Lan, bán đảo Mã Lai). Toàn thân và rễ dùng làm thuốc, chữa rắn và sâu bọ cắn, trị đau lưng.

3) Huân thảo

Cần xét lại: có loại thảo dược này không? Vì rằng mục từ 薰 (huân) được cắt nghĩa là hương thảo, tức cỏ thơm. Không phải là danh từ chỉ tên. Nếu viết là  熏 草  (huân thảo), thì đó là 蕙   (huệ), còn gọi là  蕙 草  (huệ thảo),  佩 蘭  (bội lan) hoặc  零 陵 香  (linh lăng hương). Gọi là linh lăng hương vị loại cỏ này có hương thơm và mọc ở vùng Linh Lăng thuộc tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Người xưa cho rằng cài cây này có thể tránh được dịch bệnh. Như vậy, không thấy nói là dùng làm vị thuốc.

KẾT LUẬN: Như vậy, ta thấy:

  1. Huân thảo chưa xác định là vị thuốc.
  2. Đỗ hành, đỗ nhược rất dễ tìm và không phải là vị thuốc “bí ẩn”.
  3. Công năng và giá trị của đỗ hành và đỗ nhược ghi trong Từ hải là khác hẳn với thông tin mà lương y Phan Công Tuấn đưa ra.
  4. Cần cân nhắc, có nên yêu cầu các doanh nhân nhập ngay những vị thuốc “bí ẩn” này không?

TP.HCM, ngày 22/10/2007

NGUYỄN QUỐC SIÊU

Dưới đây là thư phúc đáp của L.Y Phan Công Tuấn:

Thưa Ông!

Tòa soạn Tạp chí CTQ có chuyển cho tôi bài viết phản hồi của ông về bài báo “Đỗ hành, Đỗ nhược…” của tôi trên CTQ94, mà theo lời ông thì bài đó “thấy có nhiều vấn đề cần trao đổi lại”. Trước hết xin chân thành cám ơn ông đã đọc và phản hồi thông tin cho CTQ. Phần tôi, mỗi lần nhận được phản hồi từ các bài báo đã đăng, cho dù là một cú điện thoại nhờ tư vấn thêm hay cả một bài viết phản biện, là một lần tôi có thêm niềm vui (pha chút lo lắng, hồi hộp) trong cái nghề tay trái này, vì ít ra cũng chứng tỏ có những bạn đọc không thờ ơ với bài viết của mình.

Nhận bài viết của ông, tôi chợt nhớ về một trường hợp khác. Cách đây mười năm, tôi đã từng có một bức thư (không phải bài viết) phản hồi về một Tòa soạn báo, do cảm thấy “tự ái nghề nghiệp” khi xem một vị bác sĩ khả kính trả lời bạn đọc về chứng “di mộng tinh và bất lực” trên báo. Sau đó tôi có nhận được thư phúc đáp của bác sĩ nọ dài hơn 3 trang giấy A4, nhưng khi đọc thì than ôi, tất cả chỉ là một bản “lý lịch sơ yếu” nhằm trả lời một câu tôi tự vấn mình mà bác sĩ kia lại khẳng định đó là câu tôi viết về ông ta. Thật là oan hơn Thị Kính! Tôi liền viết một bức thư thứ hai gửi đi để minh oan cho “cái tội bất kính” không hề có của mình. Bẵng đi gần một năm, tưởng mọi chuyện đã được “xí xóa”, nào ngờ khi lật số báo Tết năm kế đó, tôi chợt tá hỏa khi thấy lù lù nội dung bức thư đầu tiên của mình bị “cắt đầu gọt chân” dựng làm “bia miệng” trước toàn văn bức thư phúc đáp của bác sĩ nọ. Còn bức “trần tình biểu” của tôi, cả Tòa soạn và bác sĩ nọ  xem như chẳng hề có nó trên đời (hiện tôi vẫn còn lưu một bản sao). Ai cũng biết “nửa ổ bánh mình là bánh mì, nhưng nửa sự thật không phải là sự thật”, nhưng thấp cổ bé miệng, tôi đành ngậm ngùi để cho không ít người ngộ nhận về mình.

Từ bài học xương máu kia, lần này, đọc bài phản hồi của ông, việc đầu tiên tôi đề nghị Tổng biên tập CTQ nếu đưa ra vấn đề này ra, trước hết xin đăng toàn văn bài của ông, không biên tập cắt xén một chữ nào. Và tất nhiên, liền đó cho phép đăng trọn thư trả lời của tôi để mọi người cùng đọc. Không phải để đối chất cãi cọ, mà quan trọng là bằng cách đối thoại này, CTQ muốn chứng tỏ mình luôn biết lắng nghe và tôn trọng các ý kiến khác biệt, để tất cả bạn đọc đều có cơ hội bình đẳng tham gia ý kiến của mình. Và nhờ thế, Tạp chí mới thực sự trở thành diễn đàn chung mở rộng cửa cho tất cả bạn đọc. Và chính mỗi bạn đọc sẽ là người tự rút ra kết luận cuối cùng cho họ.

Trở lại bài ông viết, điều đầu tiên tôi cần nói rõ là tôi không hề “cất công đi hỏi các bác sĩ, tiến sĩ” như ông tưởng. Mấy lời phát ngôn của họ là tôi dẫn theo một bài báo có ghi rõ xuất xứ. Việc gọi các vị thuốc kia là “bí ẩn” hay “chưa tìm thấy” cũng là lời của họ chứ không phải của tôi. Bài viết của tôi đã giải mã “bí ẩn” cho thấy có ít nhất 3 bộ sách thuốc phổ biến ở Việt nam lẫn Trung quốc có giới thiệu các vị thuốc đó. Sở dĩ trích dẫn đến 3 bộ sách như vậy vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu danh ngôn: “Trên đời, sợ nhất là người chỉ đọc một cuốn sách”. Nhưng dù sao cũng cám ơn ông đã cho tôi biết thêm trong Từ Hải (tôi chưa có cuốn từ điển tiếng Hán phổ thông nổi tiếng này) có hai mục từ Đỗ hành, Đỗ nhược, thêm một minh chứng cho thấy các vị thuốc đó rất phổ biến chứ không “bí ẩn”. Có điều tôi cần trao đổi với ông là, mặc dù Từ điển tiếng Việt của ta có giới thiệu các mục từ Nhân sâm, Đương quy, nhưng không thể căn cứ vào giải nghĩa trong đó mà so sánh bảo nó khác hẳn với các sách thuốc của GS.Đỗ Tất Lợi hay Võ Văn Chi. Đó là chưa nói trong bài viết của mình dù tôi có trích một vài đoạn về Đỗ nhược, Đỗ hành từ một sách thuốc, nhưng sau đó có nói rõ việc giới thiệu thông tin (tính năng tác dụng) các vị thuốc không phải là chủ đích của bài báo này. Vì muốn dịch giới thiệu một vị thuốc phải viết riêng một bài chưa chắc đã đầy đủ.

Về vị thuốc Huân thảo còn gọi Linh lăng hương và nhiều tên khác (đã nêu cả tên chữ Hán), tôi tra cứu từ hai bộ sách Bản Thảo Cương Mục và Trung Dược Đại Từ Điển, có nói rõ số trang, số mục để ai còn nghi ngờ thì tìm đọc đối chiếu thẩm định.  Nếu Từ Hải không có mục từ Huân thảo cũng không nên lấy làm lạ.  Có một thực tế trong Đông y là các giáo trình thông thường (kể cả bậc đại học) cũng chỉ dạy khoảng 300 vị thuốc, trong khi số lượng các vị thuốc có đến hàng ngàn (như Bản Thảo Cương Mục có 1982 vị, Trung Dược Đại Từ Điển có 5767 vị…). Hơn nữa, mỗi vị thuốc ngoài tên chính còn có hàng chục tên khác trong các sách thuốc cổ, cho nên không có ai nhớ hết và cũng không có sách nào chép đầy đủ hết các vị thuốc. Thêm vào đó, có khi cùng một tên lại chỉ nhiều vị thuốc khác nhau. Vì vậy, dù là người trong ngành, dù đã tra cứu nhiều sách, nhiều khi vẫn còn bối rối hay nhầm lẫn là chuyện thường tình. Ví dụ như vị Bội lan 佩蘭 mà ông cho là Huân thảo, Huệ thảo và bảo “không thấy nói là dùng thuốc”, nhưng theo Trung Dược Đại Từ Điển (Thượng Hải Khoa học kỹ thuật xuất bản xã, bản in lần thứ 14 năm 2002, tr.1377) thì Bội lan (tên khoa học là Eupatorium fortunei Turcz.) là vị thuốc lâu đời có các tên khác như:  Lan thảo 蘭草, Thủy hương 水香 (Thần Nông Bản Thảo Kinh), Đô lương hương 都梁香 (Dược Lục của Lý Đương), Đại trạch lan 大澤蘭 (Lôi Công Bào Chích Luận), Yến vĩ hương 燕尾香, Hương thủy lan 香水蘭 (Khai Bảo Bản Thảo), Hương thảo 香草, Nữ lan 女蘭 (Bản Thảo Cương Mục), v.v… Trong khi đó, Trung Quốc Y Học  Đại Từ Điển của Tạ Quan (Thương Vụ ấn thư quán xuất bản) có mục từ Huân thảo 薰 草 và giải nghĩa là biệt danh của Bội lan.

Do đó, khi kết thúc bài viết trước đây tôi không vội vàng kết luận khẳng quyết mà chủ yếu nêu thông tin gợi ý để “mong các nhà khoa học xác định thêm cho chính xác và (từ đó) các nhà kinh doanh nhập khẩu dược liệu nhanh tay tiếp cận thị trường”. Xin nói thêm bài viết đó tôi đã gửi cho CTQ số 91 (để kịp thời giải đáp cho bạn đọc), nhưng mãi đến số 94 mới được đăng, sau khi chờ CTQ 92 đăng tiếp bài khác của một chuyên gia ở Đại học Trung y dược Bắc Kinh cũng giới thiệu các bài thuốc làm thơm có dùng các vị thuốc đó. Trình bày chuyện bếp núc như vậy để ông và bạn đọc hiểu được Ban biên tập CTQ đã chuẩn bị kỹ lưỡng và có đắn đo thận trọng trước khi quyết định cho đăng bài báo của tôi chứ không phải không cân nhắc. Nói vậy không có nghĩa là CTQ không có những sơ suất, người xưa từng nói “Trí giả thiên lự tất hữu nhất thất” kia mà. Có điều chắc chắn là CTQ luôn luôn lắng nghe và có niềm tin vào quý bạn đọc đa văn quảng kiến sẵn sàng chỉ giáo những sai lầm (nếu có) để kịp thời sửa chữa ngày một tiến bộ.

Dù còn đôi điều muốn trao đổi, nhưng thư đã dài nên tôi tạm dừng ở đây.

Kính chúc ông khỏe và tiếp tục đồng hành cùng CTQ.

Trân trọng chào Ông!

L.Y PHAN CÔNG TUẤN

(CTQ số 97, 12/2007)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *