Trang nhà LƯƠNG Y PHAN CÔNG TUẤN

Sinh phần anh cất nơi đây

Lan man y dược, cỏ cây quê nhà

Cám ơn người đã ghé qua !

Danh y LÊ HỮU TRÁC và Thi hào NGUYỄN DU – một số nét tương đồng

17/01/2025

DANH Y LÊ HỮU TRÁC VÀ THI HÀO NGUYỄN DU –

MỘT SỐ NÉT TƯƠNG ĐỒNG

Bên tượng đài Nguyễn Du nhớ về Lê Hữu TrácĐầu năm 2024, nhân dịp cùng Bác sĩ CK2 Nguyễn Văn Ánh, Giám đốc Bệnh viện Y học cổ truyền Đà Nẵng đi dâng hương Y tổ Hải Thượng Lãn Ông ở Hà Tĩnh, chúng tôi có tranh thủ đi tham quan Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Vào dịp cuối năm, ngay sau Đại lễ Kỷ niệm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (27/12/1724 – 27/12/2024), một lần nữa chúng tôi được về thăm Di tích quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đai thi hào Nguyễn Du cùng PGS.TS Biện Minh Điền, Giảng viên cao cấp Đại học Vinh và Nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn, vốn là các yếu nhân đóng góp nhiều trí tuệ công sức trong việc cố vấn tổ chức các hội thảo khoa học và soạn thảo hồ sơ trình UNESCO vinh danh các danh nhân văn hóa Nghệ Tĩnh như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Hữu Trác…

Thú thực vốn là thầy lang ưa thích văn chương ở mức… thường thường bậc trung, nên mặc dù có đọc một ít nhưng tôi chưa để tâm tìm hiểu nhiều về Nguyễn Du. Nên khi chuyện vãn cùng các chuyên gia trên đường đến khu lưu niệm, có vài chi tiết gây sự tò mò cho tôi.

Về Lê Hữu Trác, sau khi viết một số tham luận hội thảo quốc gia và quốc tế cũng như tham gia biên soạn 2 cuốn sách chào mừng kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Hải Thượng Lãn Ông, tôi cũng có một số kiến thức cơ bản. Tuy nhiên, về Nguyễn Du hầu như không biết nhiều. Vì vậy ngay sau chuyến đi, về nhà tôi đã tức tốc lục đọc một số sách về Nguyễn Du có sẵn trong nhà và mua thêm một vài cuốn mới bổ túc kiến thức.

Ai cũng biết Đại danh y Lê Hữu Trác (1724-1791) và Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đều là những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử văn hóa Việt Nam, tuy họ thuộc các lĩnh vực khác nhau – y học và văn học. Nhưng qua tìm hiểu trong một số sách vở ít ỏi mới đây, tôi thật sự choáng ngợp vì có quá nhiều nét tương đồng khá nổi bật giữa hai ông.

  1. Quê hương bản quán, cái nôi văn hóa:

Thuở nhỏ Lê Hữu Trác ở quê nội xã Liêu Xá (Yên Mỹ, Hưng Yên) thuộc vùng văn hóa Xứ Đông, lớn theo cha chú lên Kinh đô dùi mài kinh sử, theo nghiệp khoa cử. Nhưng rồi năm 16 tuổi thì cha mất, gặp buổi loạn lạc, Lê Hữu Trác lưu lạc giang hồ, gia nhập quân đội mất mười năm, đến tuổi tam thập mới bắt đầu học nghề y và hơn nửa đời còn lại, cuộc đời hoạt động của vị danh y gắn liền với quê mẹ ở Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Trong khi quê nội ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh vốn là quê hương của những làm điệu dân ca ví dặm, hát phường vải, là bản quán của Hồng Sơn văn phái, nhưng Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở phường Bích Câu, kinh đô Thăng Long. Quê mẹ ở làng Hoa Thiều huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, là quê hương quan họ nức tiếng.

Cho dù quê cha xứ Đông – quê mẹ Hà Tĩnh, hay quê cha Hà Tĩnh – quê mẹ Kinh Bắc, không chỉ tú khí của bản quán quê hương, mà cả những cái nôi văn hóa Đại Việt ở đất kinh đô Thăng Long đã góp phần hun đúc đào luyện nên vốn văn hóa cho nhị vị danh nhân từ buổi thiếu thời.

  1. Gia thế trâm anh nhưng chỉ đỗ tam trường:

Nguyễn Du cũng như Lê Hữu Trác đều xuất thân danh gia vọng tộc,  trâm anh thế phiệt, quyền quý cao sang bậc nhất thời đó. Dòng họ cả hai ông đều có ông cháu, chú bác, cha con, anh em cả thảy 6-7 người đỗ đạt cao và làm quan lớn ở triều đình. Tuy nhiên, về “trình độ văn hóa” xuất thân, cả hai đều “thường thường bậc trung”, chỉ thi đỗ tam trường, thời đó gọi là “sinh đồ”, tương đương tú tài theo cách gọi về sau, hay tốt nghiệp phổ trung trung học ngày nay. Lê Hữu Trác đỗ tam trường khoa thi 1743 (năm 19 tuổi), Nguyễn Du đỗ Tam trường khoa thi 1783 (năm 18 tuổi).

Có một chi tiết thú vị, nếu Lê Hữu Trác là con trai thứ 7 của Tiến sĩ Lê Hữu Mưu (1685-1739) nên được gọi tên cậu Chiêu Bảy, thì Nguyễn Du cũng là con thứ 7 của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1707-1775), đỗ Tiến sĩ làm quan đứng đầu các hàng quan ở triều đình nhà Lê. Cả hai ông đều là con vợ thứ, có lẽ điều này cũng có phần ảnh hưởng đến góc nhìn riêng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến của hai ông.

Nói về con số 7, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Tuấn, người đang được một cơ quan của Hà Tĩnh đặt hàng viết một cuốn sách về “Nghệ thuật sử dụng con số của Nguyễn Du”, lý giải cho tôi biết việc dùng con số biểu tượng là một nét độc đáo trong văn hóa Việt Nam được thể hiện trong câu cửa miệng, trong tục ngữ, thành ngữ, ca dao và văn học. Ví như Lê Hữu Trác được gọi là cậu “Chiêu Bảy” vì là người con trai thứ bảy của gia đình quan đại thần. Đó là danh xưng đẹp đẽ theo quan niệm, tục lệ trong dân gian dành cho một cậu bé, bởi trời sinh cho gắn liền với số 7 – số biểu tượng cho “toàn bộ vũ trụ đang vận động”, như Tư Mã Thiên nói “đạt được sự hoàn thiện ở 7” và đặt kỳ vọng cậu “Chiêu Bảy” làm nên nghiệp lớn như Lưu Bị (cao 7 thước), Tào Tháo (cao 7 thước) trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa.

Nghe lĩnh vực “thi pháp số” này, tôi chỉ biết ngẩn ngơ, nhưng thú thật, cũng mơ hồ gợi mở, hấp dẫn tôi tiếp tục tìm hiểu thêm những nét tương đồng trong cuộc đời sự nghiệp của nhị vị đại danh y, đại thi hào dân tộc.

  1. Mười năm gió bụi, giang hồ.

Không biết có phải do quy luật “Trời thử lòng giao cho mệnh lớn” (Nguyễn Trãi), mà cả Lê Hữu Trác và Nguyễn Du đều gặp nhiều trắc trở gian nan trong giai đoạn trước tuổi “tam thập nhi lập”.

Lê Hữu Trác mất cha năm 16 tuổi rồi loạn lạc nổi lên, trải “mười năm mài lưỡi kiếm” (1740-1750), phải từ hôn, lưu lạc giang hồ rồi gia nhập quân đội, cuốn vào vòng xoáy chiến chinh. Đến khi nhận tin ông anh chết vì bệnh, ông mới về Hương Sơn nuôi mẹ. Do ốm đau dai dẳng, rồi mới rẽ ngoặt sang nghiên cứu thực hành Đông y ở độ tuổi ba mươi, và cuối cùng để lại cho đời bộ bách khoa toàn thư “Lãn Ông tâm lĩnh” (tên khắc in về sau là “Tân tuyên Hải Thượng Y tông tâm lĩnh toàn trật”).

Nguyễn Du, 10 tuổi mồ côi cha (1775), 13 tuổi mồ côi mẹ (1778), ở với anh là Nguyễn Khản (là Thượng thư bộ Lại kiêm Trấn thủ xứ Sơn Tây từ 1782, trước đó giữ chức Nhập thị bồi tụng từ 1773). Đến năm 21 tuổi (1786), Nguyễn Du nối chức cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên làm Chánh thủ hiệu quân đội trấn Thái Nguyên. Năm 1789, khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đại thắng quân Thanh, Nguyễn Du về quê vợ có ý định tổ chức lực lượng phản kháng nhà Tây Sơn, nhưng bất thành. Năm 1796 trở về quê cha Tiên Điền, Nghi Xuân, tưởng đã kết thúc quãng đời “mười năm gió bụi” (1786-1796). Nhưng nào ngờ, mùa đông năm đó, Nguyễn Du bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Thận bắt giam 10 tuần để điều tra ý định toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, sau nhờ anh là Nguyễn Nễ xin cho mới được tha.

  1. Chứng nhân thời kỳ lịch sử biến động

 Lê Hữu Trác và Nguyễn Du dù cách nhau 41 tuổi nhưng hai đều cùng sống trong giai đoạn cuối Lê – đầu đời Tây Sơn, khi xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng, nội chiến và xáo trộn. Đây là thời kỳ loạn lạc, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và tư duy của giới trí thức Nho học lúc bấy giờ.

Lê Hữu Trác phải chứng kiến cảnh bất công, loạn lạc, đói khổ, máu chảy đầu rơi trong các cuộc khởi nghĩa, nội chiến, nên bỏ qua cơ hội “bái tướng phong hầu” trong quân ngũ, khi nhận tin anh mất liền “bẻ giáp cởi tên” về nuôi mẹ, học y, từ đó ông hướng về y đạo, lấy việc cứu người làm trọng tâm, nghiên cứu viết sách để lại giúp đời.

Nguyễn Du về sau có hợp tác làm quan trong triều Nguyễn nhưng với tâm thế “chẳng đặng đừng”, cũng chịu tác động từ thời thế, thể hiện qua những tác phẩm đầy cảm xúc về thân phận con người, như Truyện Kiều, Văn chiêu hồn (Văn tế tế thập loại chúng sinh) hay các tập thơ chữ Hán, đã nói lên nỗi đau đời, lòng nhân ái và khát vọng công lý.

Có thể nói bản thân cuộc đời và các tác phẩm để lại của cả hai ông đều là chứng nhân, chứng tích cho giai đoạn lịch sử đầy biến động mà hai ông đã sống.

  1. Tinh thần nhân đạo sâu sắc

Trong y học, Lê Hữu Trác thể hiện tinh thần nhân đạo qua việc khám chữa bệnh không phân biệt giàu nghèo, cống hiến hết mình vì sức khỏe của người dân. Tác phẩm Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh ngoài các phần chuyên môn còn có các áng thơ văn thể hiện triết lý cuộc sống, y đức và trách nhiệm của người thầy thuốc.

Trong văn học, Nguyễn Du xót thương cho số phận con người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ, những kẻ bị áp bức. Tinh thần nhân đạo của ông lan tỏa qua Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và các tập thơ chữ Hán.

  1. Lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc

Dù xuất thân từ gia đình quyền quý, Lê Hữu Trác từ chối con đường khoa cử làm quan, xa rời quân ngũ lui về quê mẹ để chuyên tâm vào y học. Ông đặt mạng sống, lợi ích của người dân lên trên danh vọng cá nhân.

Trong khí đó, Nguyễn Du từng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng tâm hồn ông luôn trăn trở về vận mệnh dân tộc. Trong các tác phẩm của ông, có sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của người dân dưới sự bất công xã hội, nhất là đối với phụ nữ.

Nói theo ngôn ngữ hiện đại, cả hai khi buộc chọn lựa, đều “đứng về phe nước mắt”!

  1. Đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc

Không chỉ là danh y, Y tổ của Việt Nam, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn là nhà văn hóa với những tác phẩm y học mang giá trị văn học, triết học, và giáo dục. Bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh là bách khoa toàn thư Đông y, là y thư quý giá, quy mô biên soạn đồ sộ nhất của nền Đông y Việt Nam.

Là bậc thầy trong nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Du đã đưa văn học Việt Nam lên tầm cao mới, với Truyện KiềuVăn chiêu hồn là những di sản thơ văn quốc âm (chữ Nôm) bất hủ của dân tộc. Ngoài ra, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là những danh tác phản chiếu tư tưởng tâm hồn của tác giả để lại cho muôn đời sau.

  1. Sống đời thanh bạch, giản dị,

Lê Hữu Trác và Nguyễn Du đều trải qua những giai đoạn khó khăn về vật chất khi gia cảnh sa sút, nên hai ông đều hướng đến lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên, với các tầng lớp nhân dân, xa rời quyền lực và danh vọng. Điều này giúp họ tập trung phát triển chuyên môn và sự nghiệp của mình, để lại những tác phẩm giá trị lâu dài cho hậu thế.

Cả hai danh nhân không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà còn là biểu tượng cho lòng nhân ái và tinh thần tự học suốt đời để cống hiến cho con người, vì con người trên thế giới.

  1. Được UNESCO vinh danh kỷ niệm

Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) họp tại Paris (Pháp) đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15, phê chuẩn Quyết định số 191EX/32 và 192EX/32, nhất trí vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa toàn thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh Nguyễn Du được triển khai tại Việt Nam trong năm 2015, nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh của Nguyễn Du.

Phiên họp của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 42 vào ngày 21/11/2023 đã thông qua nghị quyết phê chuẩn danh sách gồm 53 “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2024-2025″, trong đó có hồ sơ kỷ niệm 300 năm ngày sinh của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Đến nay, UNESCO đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của 7 danh nhân tiêu biểu của Việt Nam (5 người còn lại là Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Chu Văn An, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu).

  1. Di thư di cảo gia bảo tồn lưu

Không phải “thấy người sang bắt quàng làm họ”, nhưng thú thực người viết bài này rất vui và lấy làm vinh dự khi lục lại tủ sách gia đình tuy ít ỏi nhưng đang tàng trữ được cổ bản “Tân Tuyên Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh Toàn Trật”, còn đầy đủ các quyển theo nguyên bản khắc in chữ Hán (mộc bản 1885) với chất lượng sách khá tốt.

Ngoài ra, chúng tôi còn sở hữu một bản sách chép tay chữ viết rất đẹp, ngoài bìa ghi  “Kim Kiều Tình Từ”, nhưng  bên trong, trước phần nội dung truyện Kiều có bài tựa “Kim Thúy Tình Từ Tân Tập Tự” do chính cháu bốn đời của Nguyễn Du là Tiến sĩ Nguyễn Mai (thường gọi là ông Nghè Mai, tiến sĩ khoa thi Giáp Thìn 1904), tên hiệu là Long Khê Hữu Tuyết soạn vào đời vua Duy Tân năm thứ 9 (có ghi nhầm 1chữ niên thành nguyệt). Sau lời tựa này là bài “Nguyễn Hầu Liệt Truyện” ghi lại tiểu sử của Nguyễn Du, cơ bản chép lại theo sách “Đại nam liệt truyện chính biên sơ tập” (quyển 20 tờ 9a).

Qua tra cứu ban đầu, chúng tôi xác định được đây chính là bản Kiều đã được cụ Nghè Mai sao lại giao cho ông Phạm Kim Chi mang về tổ chức phiên chú và xuất bản tại Sài gòn năm 1917 dưới tên sách “Kim Túy Tình Từ” (đúng ra là “Kim Kiều Tình Từ”. Năm 1972, Nha văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa của chính quyền Sài Gòn đã tái bản sách này theo nguyên bản bản in 1917, do Bác sĩ Phạm Kim Lương, con thứ của dịch giả Phạm Kim Chi gởi tặng. Gần đây có một vài tác giả, nhà xuất bản sưu tầm, giới thiệu và in lại bản sách “Kim Túy Tình Từ” này, nhưng do sắp chữ lại nên có nhiều chỗ sai, như “Tấn sĩ Mai” tức là “Tiến sĩ Mai” đọc theo âm miền Nam, in thành “Tân sĩ Mai” gây khó hiểu cho người đọc.

Theo một số nhà nghiên cứu, Truyện Kiều hiện nay có 3 dòng truyền bản là bản Kinh (các bản chép tay và có thể in ở kinh đô Huế, thường bị vua quan chỉnh sửa), bản Phường (do các nhà in tàng bản khắc chữ Nôm) và bản Tiên Điền là các bản chép tay lưu truyền trong dòng tộc quê quán của Nguyễn Du, có khả năng gần các bản gốc của Nguyễn Du nhiều nhất. Trong khi các bản Kinh, bản Phường còn lưu truyền phổ biến thì bản Tiên Điền gần như tuyệt bản, có người còn khẳng định không còn.

Vì vậy, với việc phát hiện ra bản chép tay thuộc dòng bản Tiên Điền trong tủ sách gia đình của mình, chúng tôi hy vọng sẽ có cơ hội công bố nội dung chi tiết về văn bản  trong năm 2025 này, nhân kỷ niệm 260 năm sinh của Đại thi hào Nguyễn Du. Mong các nhà nghiên cứu cùng quan tâm hợp tác thẩm định.

Những ngày cuối năm con Rồng, chuẩn bị đón năm con Rắn

Đà Nẵng tháng 01/2025.

PHAN CÔNG TUẤN

(Đã đăng trong đặc san DIỆU ÂM Chào mừng Lễ hội Quán Thế Âm 19/2 Ất Tỵ 2025, NXB Hội Nhà Văn, trang 98-106)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *