Trang nhà LƯƠNG Y PHAN CÔNG TUẤN

Sinh phần anh cất nơi đây

Lan man y dược, cỏ cây quê nhà

Cám ơn người đã ghé qua !

Luận trị Liệt dương theo “Biện Chứng Kỳ Văn”

06/11/2023

 

Một lần tôi có đến thăm Lão y Thái Đờn, nguyên Chủ nhiệm CLB Đông y dược TP.Đà Nẵng. Trong lúc trà dư tửu hậu,  Lão y có hỏi tôi: “Trong tủ sách thuốc của nhà thầy tôi thấy có một quyển sách rất quý nhưng dường như ít được thầy vận dụng, thế thầy có biết đó là cuốn sách gì không?” – Thật đáng bái phục trí nhớ của bậc lão y trên tuổi chín mươi, một lần ghé mắt nhìn qua tủ sách nhà tôi cách đây gần hai mươi năm, khi đến thăm vợ tôi sinh con đầu lòng, mà đến nay còn nhớ được một quyển sách tôi có, trong khi “chủ nhân ông” của quyển sách đó là tôi cứ ngẩn người ra không biết đó là quyển sách gì. Thấy vậy, Lão y liền tự đáp: “Đó là sách Biện Chứng Kỳ Văn!”.

À, ra vậy! Biện Chứng Kỳ Văn (của Tiền Cảnh Hồ đời Thanh, TQ) là một bộ sách thuốc chữ Hán có lối biện luận rất độc đáo, sắc sảo, tinh vi và rõ ràng, đây là sách gối đầu giường của các ngự y triều Nguyễn cũng như nhiều thế hệ thầy thuốc Đông y Việt Nam. Điều này tôi có biết, có được một số thầy cao niên “bật mí” bí quyết hành nghề khi gặp bệnh khó nên tham cứu sách này và đã từng áp dụng thành công một vài ca bệnh. Thế nhưng, hơn mười năm qua tôi chưa một lần giới thiệu sách này trong các bài báo của mình, đây quả là một thiếu sót!

Để kịp thời “sửa sai”, để cám ơn lời nhắc nhở của một bậc trưởng thượng,  cũng là để tư vấn cho nhiều bạn đọc hay hỏi về một chứng bệnh “khó nói” nhưng khá phổ biến, chúng tôi xin dịch giới thiệu phần viết về chứng liệt dương (“âm nuy môn”) trong sách này, tên đề mục là của chúng tôi thêm vào cho bạn đọc dễ theo dõi.

1.Liệt dương do tâm khí bất túc:

Người đang có cảm hứng muốn ân ái, dương vật bỗng mềm nhũn, không cương cứng được, tìm đủ cách kích thích, cuối cùng vẫn không thể giao hợp được. Có người cho đó là do hỏa của mệnh môn suy. Có mấy ai biết được thực ra là do tâm khí bất túc?

Nói chung, người có thể giao hợp kéo dài không suy là nhờ sức của mệnh môn tướng hỏa sung mãn. Dương vật mềm yếu không cương, đúng là mệnh môn hỏa suy. Như vậy cớ sao lại bảo là do tâm khí bất túc? Nên biết quân hỏa của tâm động thì tướng hỏa của mệnh môn mới theo đó mà động. Tướng hỏa không thể vượt qua thay thế quân hỏa mà hành sự. Quân hỏa vượng mà tướng hỏa lại chẳng suy, cho nên giao hợp được lâu mà không xuất tinh. Nếu quân hỏa suy trước, không thể tự chủ, dù tướng hỏa có thúc dục bên cạnh thì sự suy yếu vẫn là chủ. Ý vua không mạnh mẽ cứng rắn thì thần tướng làm sao tự phấn chấn lên được. Cho dù thần tướng có cưỡng ép vua ra lệnh cho chư hầu,hỏa động nhưng trong tâm chỉ dao động ở thế không làm chủ, thì có nghe quyền lệnh của thần tướng cũng tạm cương lên trong giây lát, chứ không thể giao hợp kéo dài cho thỏa lòng hoan lạc.

Vì vậy trị bệnh liệt dương tất phải trên thời bổ tâm, dưới thời bổ thận. Tâm thận đều vượng sau đó mới bổ tướng hỏa của mệnh môn. Giống như vua sáng tôi hiền thì vận nước dài lâu, tâm tĩnh lặng mà thận khởi động thì chuyện “nhất dạ đế vương” mới bền vững vậy.

Trường hợp này dùng bài thuốc: Khởi dương thang gồm có :

Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Ba kích thiên 1 lượng, Hoàng kỳ 5 chỉ, Bắc ngũ vị 1 chỉ, Thục địa 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Bá tử nhân 1 chỉ, Sơn thù du 3 chỉ. Sắc uống.

Uống liên tục 4 thang, thấy dương cương. Uống tiếp 4 thang thì dương vượng. Uống 4 thang nữa tất có thể giao hợp lâu mà không thất bại. Nếu uống kéo dài được 3 tháng thì thấy người đổi khác hẳn, chẳng những xương cốt nặng chắc mà cả thân người như được tái tạo lại vậy.

Phương thuốc này hay ở chỗ đại bổ khí của tâm thận, không hoàn toàn ôn hỏa của mệnh môn mà hỏa khí tự vượng. Người đời không biết rằng bổ tâm để sinh hỏa thì tâm khí vốn đã suy khi gặp hỏa vượng sẽ gây hại tâm. Lại không biết bổ thận để sinh hỏa thì thận thủy vốn đã thiếu khi gặp hỏa vượng sẽ làm tổn thận. Tâm bị hại, thận bị tổn, tuy hỏa vượng phỏng có ích gì; ngược lại, hỏa vượng chỉ tổ thiêu đốt âm huyết khô táo, ắt dẫn đến tình thế dương vượng âm tiêu không thể cứu được. Đạo của ta vốn có phương thuốc trợ dương, nhân vì ngại kẻ hiền trí cậy vào để hưởng lạc, cho nên thánh nhân đời trước giấu đi không nói ra. Nhưng thật đáng tiếc, nền nếp xã hội ngày càng suy bại, các giới quan lại thượng lưu luôn khẩn cầu bọn phương sĩ chế luyện các bài thuốc bằng kim loại đất đá cho uống, dẫn đến chết người vô số kể. Thấy thế, thầy ta rất đỗi xót thương, cho nên chợt bàn đến chứng âm nuy (liệt dương) mà truyền lại phương thuốc này. Ta chẳng dám giấu, do vậy ghi ra đầy đủ, cấp cho những kẻ đang sửa soạn các phương thuốc kim loại đất đá để rước họa mất mạng, nếu may mà uống được phương thuốc này đạt được hiệu quả sinh tân trợ dương thì quý lắm thay!

2. Liệt dương do dương khí của tỳ vị không vượng:

Có người tinh lạnh, tinh loãng, tuy cũng có thể giao hợp, nhưng nửa đường đứt gánh hay “vừa đến chợ đã hết tiền”, người ta cho là hỏa mệnh môn suy, ai hay đó là do dương khí của tỳ vị không vượng.

Tỳ vị thuộc thổ, mà thổ sinh từ hỏa, dương khí của tỳ vị không vượng tựa hồ như hỏa mệnh môn suy. Đâu biết rằng hỏa của mệnh môn là hỏa tiên thiên, còn thổ của tỳ vị là thổ hậu thiên. Thổ hậu thiên vốn có gốc nơi hỏa tiên thiên, nếu hỏa tiên thiên không vượng thì thổ hậu thiên không thể sinh. Bổ hỏa tiên thiên chính là để sinh thổ hậu thiên. Thổ của tỳ vị tuy gốc là hậu thiên, nhưng kỳ thực bên trong không phải không có khí tiên thiên. Hỏa mệnh môn mà hàn, thì khí tiên thiên của tỳ vị làm sao sinh được. Mệnh môn đã không thể sinh khí tiên thiên của tỳ vị, trong khi khí hậu thiên của tỳ vị mỗi lúc càng thêm suy vi, mà muốn cho khí vượng để có thể cố sáp được tinh, cho tinh dậm đặc chứ không loãng nhạt thì làm sao có thể được?

Phép điều trị tất phải bổ hỏa tiên thiên của mệnh môn, đồng thời bổ thổ hậu thiên của tỳ vị, thì thổ khí đã vượng mà hỏa khí lại chẳng suy, khiến cho khí ấm áp mà tinh đậm đặc vậy.

Phương thuốc dùng Hỏa Thổ ký tế đan:

Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Sơn thù du 1 lượng, Thỏ ty tử 1 lượng, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ.

Sắc uống liên tục 10 thang thời tinh khí ấm áp. Uống được 3 tháng thời vĩnh viễn không suy nhược trở lại. Phương này kiện tỳ vị thổ đồng thời bổ mệnh môn hỏa, nên tránh được các tai họa hỏa bốc lên quá cao hay thổ nhiễm phải hàn thấp. Thấp khí khử được thì tinh thuần chất, hàn khí khử được thì tinh ấm áp. Hàn thấp đã trừ, âm khí tiêu vong thì dương khí mạnh mẽ, đâu phải hổ thẹn vì dương sự yếu kém nữa.

3.Liệt dương do tâm hỏa bế tắc:

Có người do lúc thiếu thời gặp chuyện không toại nguyện, uất ức sầu muộn dẫn đến dương vật yếu mềm, không cất lên nổi, hoặc có cương mà không cứng. Người ta cho  là hỏa của mệnh môn suy, ai hay đó chính là do tâm hỏa bế tắc.

Thận là chức quan tác cường, kỹ xảo từ đó mà ra, là nơi tàng trữ tinh và chí (theo Nội Kinh) . Tâm chí không thỏa mãn thì dương khí không thư thái. Dương khí chính là chân hỏa trong thận vậy. Chân hỏa trong thận tất phải vâng mệnh của tâm. Tâm hỏa mà động thì thận hỏa ứng liền. Tâm hỏa bị đè nén uất ức, không khai thông thì thận hỏa tuy vượng, cũng không thể đáp ứng, tựa như hỏa yếu mà thật ra không phải hỏa yếu.

Điều trị không được dùng phương pháp trợ mệnh môn hỏa. Nếu nhầm dùng trợ mệnh môn hỏa thời hỏa vượng ở hạ tiêu mà khí ức uất không được tuyên thông, tất dẫn đến thảm họa dương vượng âm tiêu, biến sinh chứng ung thư không thể cứu được. Nên tuyên thông uất ức trong tâm, khiến tâm ý thư thái cởi mở, dương khí được khai thông thời chứng liệt dương liền khỏi.

Dùng phương Tuyên chí thang như sau:

Phục linh 5 chỉ, Xương bồ 1 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Bạch truật 3 chỉ, Sinh táo nhân 5 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Sài hồ 1 chỉ, Đương quy 3 chỉ, Nhân sâm 1 chỉ, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 3 chỉ.

Sắc uống 2 thang tâm chí liền thư thái, uống thêm 2 thang dương sự cất lên ngay,  không cần uống nhiều. Bệnh này nguyên nhân do hỏa bế tắc mà sanh khí muộn phiền buồn bực, chứ tuyệt nhiên không phải do hỏa hàn mà lửa tắt. Vì thế, chỉ cần thổi một vài lần là hỏa bùng lên, không cần bổ hỏa nhiều mới đầy đủ. Nhưng tiếc thay, phần lớn người đời đã chữa nhầm như vậy.

4.Liệt dương do mệnh môn hỏa quá suy vi:

Có người thiên bẩm rất yếu ớt, không có gió vẫn rét, chưa sang thu mà lạnh lẽo, gặp mùa đông băng giá, tuy khoác áo lông cừu dày mà thân không ấm. Khi có cảm hứng giao hợp, tiếp xúc vài lần tinh đã tự chảy. Người ta cho đó là người quá thiên về âm tính, ai hay chính là do mệnh môn hỏa quá suy vi. Hỏa của mệnh môn, tức là hỏa của tiên thiên vậy. Người đời cho rằng tiên thiên hỏa suy là kỳ hạn tự nhiên, không thể dùng sức người mà xoay ngược lại được. Ai hay sức người mà chính đáng có thể thắng được ý trời. Hỏa của mệnh môn tuy là hỏa khí tiên thiên, nhưng công dụng hậu thiên đầy đủ có thể bồi đắp lại. Một đốm lửa nhỏ có thể dẫn đến bùng cháy ngút trời. Phàm tính hỏa là vậy, chẳng lẽ chân hỏa trái lại khó dẫn lắm sao? Duy có mệnh môn ẩn tàng ở trong thận là hỏa vô hình. Nếu là hỏa hữu hình thì nên lấy hỏa công hỏa, còn với hỏa vô hình thì nên lấy thủy để dẫn hỏa. Lấy hỏa dẫn hỏa mà hỏa trái lại không vượng, lấy thủy dẫn hỏa mà hỏa tự nhiên chẳng suy.  Như thế bổ mệnh môn hỏa so với bổ các loại hỏa khác, thực có phân biệt vậy.

Phương thuốc dùng Phò mệnh sinh hỏa đơn:

Nhân sâm 6 lượng, Ba kích thiên 1 cân , Sơn thù du 1 cân, Thục địa 2 cân, Phụ tử 2 củ, Nhục quế 6 lượng, Hoàng kỳ 2 cân, Lộc nhung 2 cái, Long cốt (đập vụn tẩm giấm) 1lượng, Sinh táo nhân 3 lượng, Bạch truật 1 cân, Bắc ngũ vị 4 lượng, Nhục thung dung 8 lượng, Đỗ trọng 6 lượng. (Ghi chú: 1 cân = 16 lượng, 1 lượng =40g)

Tất cả tán mịn, luyện mật làm hoàn. Mỗi ngày hai lần sáng tối, mỗi lần uống 5 đồng cân (20g). Uống 3 tháng có thể giao hợp bền sức kéo dài.

Phương này thuộc loại điền tinh, bổ thủy để bổ hỏa, cớ sao lại gia vào thuốc bổ khí? Há không biết khí vượng thì tinh bắt đầu sinh, nếu bổ hỏa mà không bổ khí thì hỏa không có gốc, giỏi lắm chỉ mua vui được một sớm một chiều, chứ không thể cầu mong hưởng lạc thú lâu dài được. Chỉ khi nào khí vượng thì tinh mới tự nhiên vượng, tinh vượng thì hỏa mới tự nhiên có gốc, mới có thể tự sinh sôi không ngừng. Huống nữa, khí là biểu tượng vô hình, lấy khí vô hình để bổ hỏa vô hình là sự tương ứng nên làm, nhờ đó tinh lại dễ sinh sôi và hỏa lại dễ tăng trưởng.

5.Liệt dương do hỏa khí tâm bào đại suy:

Có người đang tuổi trung niên mà dương vật không cương được, dù chị em sờ soạng mân mê vẫn y như thế, hoặc có cương lên rồi liền xìu xuống, hứng thú gối chăn dứt bặt trong lòng, dẫu buông thả trêu ghẹo mà vẫn khô khốc trơ trơ. Người ta cho là có định lực kiềm thúc giữ gìn, ai hay đó chính là do hỏa khí của tâm bào đại suy. Hỏa của tâm bào là tướng hỏa vậy. Tâm bào hỏa vượng thời sức có thể thay vua (tâm hỏa)  hành sự. Do đó khi quân hỏa động mà tướng hỏa lại sung sức nên giúp quân hỏa thêm vui vầy. Nếu tâm bào hỏa suy, tâm hỏa tuy động mà tướng hỏa yếu sức khó vâng theo mệnh đấng quân vương, dù có sai sử động vẫn không động được. Ví như thần tướng bị bệnh, nằm thở thoi thóp, sai khiến phấn đấu ngồi dậy gắng sức phò giúp nhà vua, thử hỏi làm sao được? Vả lại, tâm bào hỏa với mệnh môn hỏa phải tương thông nhau. Có khi mệnh môn hàn mà tâm bào nhiệt, nhưng chưa từng có tâm bào hàn mà riêng mệnh môn nhiệt. Sở dĩ hỏa của tâm bào suy vi, dẫu có trợ giúp (tâm hỏa) cũng không khởi lên được, đó là do chức phận như thế.

Phép điều trị nên ôn tâm bào mà không cần ôn mệnh môn. Dùng phương thuốc:

Nhân sâm 1 chỉ, Ba kích thiên 1 lượng, Nhục quế 3 chỉ, Sao táo nhân 5 chỉ, Viễn chí 2 chỉ, Phục thần 1 chỉ, Lương khương 1 chỉ, Phụ tử 1 chỉ, Bá tử nhân 2 chỉ, Hoàng kỳ 5 chỉ, Đương quy 3 chỉ, Thố ty tử 2 chỉ.

Sắc uống liên tục 10 thang, hứng thú ngày càng nảy sinh. Uống 20 thang dương vượng lên, không thể đảo ngược.

Phương này tên là Cứu tướng thang, chuyên trị các chứng tâm bào hư hàn, chứ không chỉ cường tráng dương sự. Trong phương này tuy nói trị tâm bào, nhưng thực ra bao hàm trị cả tâm, vì sao vậy? Tâm bào là tướng của tâm quân, nếu mình thần tướng đói lạnh chung quy do bổng lộc của vua ban ít ỏi. Bổ tâm quân thì quân vương giàu mạnh, tuy phần nhiều đem ban bố hậu hĩnh, chứ không riêng để dưỡng thân, nhưng một khi quân sĩ thọ hưởng ân huệ thì theo lý tương trợ cùng nhau đâu còn phải lo lắng về sự suy yếu nữa. Khi ấy tất nhiên sẽ phụng mệnh ra trận, xung phong phá địch một cách dũng mãnh.

PHAN LANG dịch

(Dịch theo Biện Chứng Kỳ Văn – Quảng Ích thư cục ấn hành, 1937)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *