Chuyện nghề Danh y CAO VINH LÂM (kỳ 1)
20/08/2025
LGT: Đi tìm tài liệu bếp núc về hai quyển sách quý Trung y Chứng trạng Giám biệt Chẩn đoán học và Trung y Chứng hậu Giám biệt Chẩn đoán học, tôi bắt gặp bài viết tự thuật về con đường học hành, nghiên cứu Đông y khá dài của Giáo sư Cao Vinh Lâm, là Phó Chủ biên ấn bản lần thứ 2 của hai quyển sách quý nói trên.
Thiết tưởng chuyện nghề hơn năm mươi năm qua của vị Danh y Trung Quốc cũng có thể gợi mở con đường và bài học cho các bạn trẻ học và hành Đông y ở Việt Nam hôm nay, nên tôi mạo muội chuyển ngữ đăng làm vài kỳ trên trang nhà. Hy vọng sẽ có nhiều người tiếp tục theo dõi và đón đọc.
P.C.T

Tiểu sử nhân vật:
Cao Vinh Lâm (高荣林), sinh năm 1944 tại Vũ Thanh, Thiên Tân. Ông là Chủ nhiệm y sư, giáo sư hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ của Bệnh viện Quảng An Môn – Viện Khoa học Trung y Trung Quốc; Thầy hướng dẫn công tác kế thừa kinh nghiệm học thuật của các bậc danh y lão thành toàn quốc; Thầy hướng dẫn hợp tác sau tiến sĩ về kế thừa Trung y toàn quốc; Danh y quốc y thủ đô. Ông từng là Hội trưởng danh dự Ủy ban chuyên ngành Y học giấc ngủ của Liên hiệp hội Trung y thế giới, Ủy viên thường vụ Ủy ban chuyên ngành Bệnh hô hấp. Ông theo học Quốc y đại sư Lộ Chí Chính (路志正), làm lâm sàng Trung y 53 năm. Tôn sùng Nội Nạn, Trương Trọng Cảnh, biện chứng tạng phủ hình thần, coi trọng điều trị công năng Tỳ Vị, chú trọng điều dưỡng giai đoạn sau bệnh. Ông kiên định giữ vững lý niệm Trung y, đi theo con đường Trung y truyền thống. Nhiều lần được tặng danh hiệu Đảng viên xuất sắc của Cục Quản lý Trung y quốc gia, Viện Khoa học Trung y Trung Quốc, Bệnh viện Quảng An Môn; được khen thưởng là Cán bộ công tác Đảng xuất sắc, Lao động tiên tiến, Điển hình nghiên cứu khoa học của Bệnh viện Quảng An Môn; năm 2002, được công nhận là “Gia đình văn minh 5 tốt” của các cơ quan trung ương quốc gia.
1. Chuyên tâm học tập – Xây dựng nền tảng vững chắc
Tôi tên là Cao Vinh Lâm, sinh năm 1944, tốt nghiệp khoa Trung y Học viện Trung y Bắc Kinh năm 1969, và tốt nghiệp lớp cao học của Viện Nghiên cứu Trung y năm 1981, dưới sự hướng dẫn của Thầy Lộ Chí Chính – Chủ nhiệm y sư. Tôi đã làm lâm sàng Trung y 53 năm, công tác tại Bệnh viện Quảng An Môn hơn 40 năm, từng giữ chức Chủ nhiệm các khoa Tim – Phổi, Hô hấp, và Bệnh nan y.
Thuở nhỏ tôi gầy yếu, chịu ảnh hưởng từ cha nên quyết tâm học y. Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi thi đỗ vào Trường trung học trực thuộc Đại học Y khoa Thiên Tân, sau đó dự thi vào Học viện Trung y Bắc Kinh.
Năm 1962, tốt nghiệp khóa đầu tiên của Học viện Trung y Bắc Kinh. Sau khi tổng kết ưu khuyết điểm giảng dạy, năm giáo sư Trần Thận Ngô (陈慎吾), Lý Trọng Nhân (李重人), Vu Đạo Tế (于道济), Tần Bá Vị (秦伯未), Nhậm Ứng Thu (任应秋)đã gửi thư lên Bộ Y tế, được gọi là “Ngũ lão thượng thư”. Họ đề nghị: “Học viện Trung y là nơi đào tạo y sư Trung y cao cấp”, cần tăng cường học tập y cổ văn, bảo đảm thời gian và cường độ học tập Trung y truyền thống, chú trọng học tập kinh điển.
Vì vậy, ngay từ khi nhập học, lớp chúng tôi đã được tăng cường học lý luận kinh điển Trung y. Thầy Trình Sĩ Đức (程士德) giảng Nội kinh giảng nghĩa, thầy Chu Tín Hữu (周信有)giảng nguyên văn Nội kinh, kết hợp chú giải của Vương Băng (王冰), Dương Thượng Thiện (杨上善), Trương Cảnh Nhạc (张景岳), Mã Thì (马莳), Trương Chí Thông (张志聪). Riêng nguyên văn Nội kinh đã có hơn 200 tiết học, các thiên trọng yếu đều bắt buộc học thuộc lòng, tổng cộng hơn 40.000 chữ. Thương hàn, Kim quỹ cũng phải học thuộc nguyên văn, đồng thời phải thuộc cả ca phương trong Trường Sa phương ca quát, Kim quỹ phương ca quát của Trần Tu Viên, không chỉ nắm vững thành phần mà còn phải nhớ kỹ liều lượng, tỷ lệ. Lối học “trên ngựa, trên gối, trong nhà xí” mà Âu Dương Tu (欧阳修) từng nói, chúng tôi đã tận dụng triệt để. Việc học kinh điển Trung y đúng là một quá trình gian khổ, nhưng đã đặt nền tảng vững chắc cho lý luận y học.

Năm 1969, tốt nghiệp đại học, tôi đến huyện Tây Cát, Ninh Hạ, công tác 8 năm tại trạm y tế nông thôn, sau đó về Khoa Trung y Bệnh viện Nhân dân huyện. Tây Cát nằm ở vùng núi Lục Bàn Sơn, điều kiện y tế kém, phòng dịch yếu, thiếu thốn thuốc men, các bệnh truyền nhiễm như sởi, lỵ, ho gà, tinh hồng nhiệt (còn gọi là scarlet fever là một loại bệnh nhiễm trùng cấp tính của viêm amidan hoặc nhiễm trùng da gây ra) thường xuyên xuất hiện. Chúng tôi dùng thang thuốc sắc lớn để phòng sởi, dùng mật đắng gà chữa ho gà, thang Ma hạnh thạch cam chữa sởi kèm viêm phổi, thang Cát căn cầm liên chữa viêm ruột cấp, An cung ngưu hoàng hoàn chữa lỵ độc sốt cao hôn mê, Ngân kiều tán, Dưỡng âm thanh phế thang chữa bạch hầu… đều có hiệu quả.
Ở cơ sở miền núi Lục Bàn, thường gặp nhiều bệnh nan giải, cũng là thử thách lớn cho người thầy thuốc. Nhưng vì thiếu sự chỉ dẫn của danh sư, tôi vừa tra sách vừa khám bệnh, nhiều bối rối. Nguyện vọng tha thiết nhất của tôi lúc ấy là được học tập, bồi dưỡng thêm.

2. Kế thừa tinh hoa đại sư – Kiến tạo con đường danh y
Sau 10 năm ở cơ sở, năm 1979 tôi thi đỗ cao học Viện Nghiên cứu Trung y, năm 1980 bắt đầu theo thầy Lộ Chí Chính học lâm sàng, trở thành đệ tử thân cận (入室弟子) của thầy. Năm 1981, tốt nghiệp, tôi thuộc nhóm thạc sĩ Trung y đầu tiên của Trung Quốc, mở ra tiền lệ đào tạo cao học Trung y.
Sau khi tốt nghiệp, tôi ở lại công tác tại Bệnh viện Quảng An Môn. Thầy Lộ luôn tận tình chỉ dạy. Về sau, tôi và thầy có nhiều trao đổi về tư tưởng, học thuật, thảo luận lâm sàng và hợp tác sự nghiệp.

Trong công tác, tôi phụ giúp thầy biên soạn các sách: Trung y nội khoa cấp chứng, Lộ Chí Chính y lâm tập diệp, Trung y thấp bệnh chứng trị học, Tùng thư y học Lộ Chí Chính. Đồng thời, tôi còn chủ trì các đề tài kế thừa học thuật của thầy như: Đề tài trọng điểm của Cục Quản lý Trung y quốc gia “Nghiên cứu kế thừa và chỉnh lý kinh nghiệm điều trị chứng Hung tý bằng phép điều lý Tỳ Vị của Lộ Chí Chính”, đạt giải Ba tiến bộ khoa học công nghệ Viện Nghiên cứu Trung y Trung Quốc, giải Nhì nghiên cứu cơ bản Trung y quốc gia; Đề tài công trình quốc gia “Nghiên cứu tư tưởng học thuật và kinh nghiệm lâm sàng của Lộ Chí Chính”, đạt giải Nhì tiến bộ khoa học công nghệ Viện Khoa học Trung y Trung Quốc, giải Nhì Hội Trung y Trung Quốc, giải Ba tiến bộ khoa học công nghệ Bắc Kinh; Đề tài “Kế thừa và quảng bá tư tưởng học thuật Lộ Chí Chính” của Cục Quản lý Trung y Bắc Kinh. Tôi đã đạt 18 giải thưởng nghiên cứu khoa học các cấp.
Thầy Lộ là bậc đại y gia, đức cao vọng trọng, tinh thông kinh điển, tri thức uyên bác, kinh nghiệm phong phú. Việc kế thừa học thuật của thầy là mục tiêu cả đời của tôi. 42 năm qua, dưới sự chỉ dẫn của thầy, tôi luôn kính sư trọng nghiệp, giữ chữ tín, kế thừa học thuật và kinh nghiệm lâm sàng, nâng cao học thuật bản thân, tích lũy thêm kinh nghiệm, chưa bao giờ dừng bước.
Năm 1993, tôi được bổ nhiệm làm giáo sư hướng dẫn thạc sĩ; năm 2000 làm giáo sư hướng dẫn tiến sĩ; năm 2008 được mời làm thầy hướng dẫn kế thừa kinh nghiệm học thuật danh y lão thành toàn quốc khóa IV; năm 2009 làm giáo sư hướng dẫn tiến sĩ chuyên ngành lâm sàng (sư thừa) của Viện Khoa học Trung y Trung Quốc; năm 2012, Cục Quản lý Trung y quốc gia phê duyệt thành lập Phòng kế thừa danh y toàn quốc của tôi; năm 2013, được bổ nhiệm làm thầy hướng dẫn hợp tác sau tiến sĩ kế thừa khóa I của Cục Quản lý Trung y quốc gia. Tôi đã đào tạo 2 nghiên cứu sinh sau tiến sĩ kế thừa, 10 nghiên cứu sinh tiến sĩ, 5 nghiên cứu sinh thạc sĩ, 6 học trò kế thừa học thuật.

3. Nghiên cứu Nội khoa– Tắm gội hương hoa rừng hạnh
Năm 1981, khi đang giữ chức Phó viện trưởng Bệnh viện Quảng An Môn, Triệu Kim Đạc (赵金铎) cùng với các chuyên gia Lộ Chí Chính (路志正), Tạ Hải Châu (谢海洲), Lãnh Phương Nam (冷方南)… thành lập Phòng nghiên cứu Nội khoa (内科研究室), trở thành lá cờ đầu của giới Trung y lúc bấy giờ. Tôi có dịp làm việc chung với các bậc tiền bối tại đây, thu hoạch được rất nhiều lợi ích.

Phòng nghiên cứu dần dần mở buồng bệnh, lập ra các chế độ bệnh án Trung y, đi buồng Trung y, hội chẩn, điều dưỡng và thảo luận ca bệnh. Trong điều trị xác lập rõ nguyên tắc: có thể dùng Trung y thì không dùng Tây y; ưu tiên Trung y, sau đó mới Tây y; kết hợp Đông – Tây khi cần thiết. Các thầy khuyến khích chúng tôi – lớp bác sĩ trẻ – dốc tâm nghiên cứu Trung y, phát huy sở trường vốn có.
Khoa nội chủ yếu điều trị Tý chứng (痹证), song để nâng cao năng lực xử trí, cũng thu nhận các ca bệnh nặng, bệnh nguy cấp như:
Crohn – 克隆病 (hay còn gọi là viêm ruột khu trú, gây ra tình trạng viêm ở đường tiêu hóa, dẫn đến các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy, sụt cân và chảy máu trực tràng. Bệnh Crohn không có thuốc chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể kiểm soát các triệu chứng bằng các phương pháp điều trị);
Hội chứng Sjögren –干燥综合征 (Bệnh khô khớp là một bệnh tự miễn mạn tính, trong đó hệ miễn dịch của cơ thể tấn công các tuyến sản xuất chất lỏng, đặc biệt là tuyến lệ và tuyến nước bọt, gây ra các triệu chứng khô mắt và khô miệng. Bệnh có thể ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác trên cơ thể và có thể đi kèm với các bệnh tự miễn khác như viêm khớp dạng thấp hoặc lupus ban đỏ hệ thống);
Behçet – 白塞氏病 (Bệnh Bạch sản là một bệnh viêm mạn tính hiếm gặp, đặc trưng bởi tình trạng viêm các mạch máu, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Bệnh có thể gây ra các triệu chứng như loét miệng, loét bộ phận sinh dục, viêm mắt, tổn thương da, và các vấn đề về khớp, thần kinh, hoặc tiêu hóa.);
Lupus ban đỏ hệ thống -系统性红斑狼疮;
Đột quỵ cấp -急性脑血管病;
Bệnh rỗng tủy sống -脊髓空洞症;
Nhược cơ nặng -重症肌无力;
Thiếu máu bất sản -再生障碍性贫血;
Bệnh mất myelin – 脱髓鞘 (bệnh lý mất myelin, là tình trạng mà lớp vỏ bọc bảo vệ xung quanh dây thần kinh (myelin) bị tổn thương hoặc phá hủy. Tình trạng này ảnh hưởng đến khả năng truyền tín hiệu của dây thần kinh, gây ra nhiều triệu chứng khác nhau, từ yếu cơ, tê bì, mất cảm giác đến các vấn đề về vận động và phối hợp).
Cụ Triệu Kim Đạc, Lộ Chí Chính, Tạ Hải Châu đích thân đi buồng, hội chẩn, tham dự thảo luận ca khó, kiên trì nhiều năm. Có lý luận, có lâm sàng, có bàn bạc, có giới thiệu kinh nghiệm thành công, cũng có bài học thất bại để cảnh tỉnh.
Để học hỏi thêm các bậc cao nhân, Phòng nội khoa còn đặc biệt mời danh y Bắc Kinh hội chẩn: Đổng Kiến Hoa (董建华), Đổng Đức Mậu (董德懋), Vu Quân Ngọc (巫君玉) , Triệu Thiệu Cầm (赵绍琴), Phương Hòa Khiêm (方和谦), Bộ Ngọc Như (步玉如), Lưu Chí Minh (刘志明), Tiêu Thụ Đức (焦树德)v.v…. Các thầy mỗi người một dòng truyền thừa, theo biến chuyển bệnh tình mà thiên trọng biện chứng khác nhau, lập phương dụng dược mỗi người đều có độc đáo, phong thái khác biệt.
Ví dụ một ca hội chứng Sjögren sốt cao nặng:
- Tiêu Thụ Đức luận từ thận hư tinh khuy, cân cốt mất nuôi dưỡng, dần thành ương tý, nên bổ thận điền tinh, dùng nhiều thuốc “huyết nhục hữu tình”, thông kinh hoạt lạc không ngại thuốc cay nóng mạnh như Phụ tử, Quế chi, Ma hoàng.
- Vu Quân Ngọc lại lập luận từ thận dương khuy hư, trọng dụng tư âm: Sinh địa, Miết giáp đều đến 50g, kèm thêm động vật khu phong, sưu lạc, trực tiếp dùng Địa long, Ô tiêu xà mỗi vị 20g.
Hai cách nhìn mở ra lối tư duy cho hậu học, đều là kinh nghiệm quý giá.
Trong viết sách lập thuyết, Phòng nghiên cứu Nội khoa tiên phong dẫn đầu, nổi bật nhất là biên soạn, xuất bản:
- Chẩn đoán phân biệt triệu chứng trong Trung y
- Chẩn đoán phân biệt chứng hậu trong Trung y
Hai sách đều do Triệu Kim Đạc làm chủ biên, Lộ Chí Chính làm ủy viên biên tập, dốc sức phụ trợ. Từ khâu thu thập, thẩm định và hoàn thiện bản thảo, hai bậc lão sư đổ biết bao tâm huyết. Sách do Nhân Dân Vệ Sinh Xuất Bản Xã phát hành, trở thành sách bán chạy lúc đó, được trích dẫn nhiều, đoạt giải Thành quả khoa học kỹ thuật của Viện nghiên cứu Trung y; bản tái bản 《Chẩn đoán phân biệt triệu chứng trong Trung y》 còn đạt Giải nhì Sách khoa học kỹ thuật Hội Trung y Trung Hoa.
Danh tiếng của Phòng nghiên cứu Nội khoa Quảng An Môn ngày càng vang xa, bác sĩ các tỉnh thành nô nức đến học tập, tiếp thu đặc sắc Trung y và kinh nghiệm quý của ba danh y lão thành. Họ mang kiến thức này về địa phương áp dụng, phục vụ nhân dân, giúp quảng đại quần chúng gián tiếp hưởng y thuật của danh y kinh thành; về sau chính họ cũng dần trở thành lãnh đạo và nòng cốt tại các bệnh viện địa phương.
Vì Phòng nghiên cứu Nội khoa tập trung nhiều nhân tài Trung y, nên từ khi lớp “Tây y học Trung y” toàn quốc khôi phục (1982), hầu như phần lớn các khóa học đều do y sư phòng này đảm nhiệm giảng chính, đặc biệt là tứ đại kinh điển, cơ sở Trung y, trung dược, phương tễ…. Tôi làm tổ trưởng giảng dạy môn Cơ sở Trung y, kiêm cả môn Nội khoa Trung y. Trong giảng dạy toàn quốc, vừa dạy vừa học, mỗi lần giảng lại có thêm lĩnh hội, lợi ích vô cùng.
Những kinh nghiệm của cụ Triệu Kim Đạc càng in đậm trong tâm trí tôi:
- Dùng Bảo nguyên thang hợp Ý dĩ Phụ tử Bại tương tán để cứu trúng phong thoát chứng.
- Dùng Tang câu Ôn đởm thang hợp Châu hoàng Hầu táo tán trị trúng phong bế chứng.
- Dùng Tê giác Địa hoàng thang trị đại nục xuất huyết.
- Dùng Sinh mạch tán, Nhân sâm Cáp giới tán hợp Phục linh Hạnh nhân Cam thảo thang để vãn hồi tâm suy do bệnh tim phổi.
Mỗi lần cụ Triệu đi buồng, đều kết hợp thực tế để giảng y lý, truyền kinh nghiệm, chỉnh sửa chỗ sơ sót trong chẩn trị của chúng tôi – thật sự khắc cốt ghi tâm.

Trong thời gian công tác tại Phòng Nghiên cứu Nội khoa, tôi lại may mắn được quen biết thầy Đổng Đức Mậu (董德懋). Vợ tôi, Từ Lăng Vân (徐凌云- danh sư Trung y thủ đô, nguyên Phó Chủ nhiệm Khoa Cấp cứu Bệnh viện Quang An Môn) từ năm 1982 đã theo học thầy Đổng, đến năm 1991 chính thức bái sư trở thành người kế thừa học thuật của ông.
Thầy Đổng theo học cụ Thi Kim Mặc (施今墨), tốt nghiệp Học viện Trung y Hoa Bắc năm 1937, nổi danh tại Bắc Kinh từ những năm 1940, được mệnh danh là một trong “Tứ tiểu danh y Bắc Kinh”. Ông y thuật tinh thâm, chẩn trị nghiêm cẩn, kiến thức uyên bác, đặc biệt am tường học thuyết Tỳ Vị. Khi chẩn đoán bệnh, ông nắm chắc chủ chứng; khi điều trị, với ngoại cảm thường dùng phép thanh giải, còn nội thương thì giỏi điều lý Tỳ Vị. Với bệnh chứng nan y tình trạng trầm trọng, ông coi trọng chỉnh thể, biện chứng luận trị kết hợp với luyện tập các tư thế để điều thần trị bệnh (配合站桩,治病调神). Chúng tôi được bái sư theo học thầy Đổng, lắng nghe chỉ giáo, thỉnh vấn giải nghi, cùng nhau trau dồi y thuật cho đến khi thầy viên tịch năm 2002. Chúng tôi đã biên soạn và xuất bản “Đổng Đức Mậu Nội khoa lâm sàng kinh nghiệm tập –董德懋内科临床经验集”, năm 2005 được Hội Trung y Trung Quốc trao Giải Ba Sách tiến bộ Khoa học kỹ thuật.

(Còn nữa)
P.C.T chuyển ngữ
Bài viết mới nhất
Ứng dụng Google store
Cây thuốc Đà Nẵng
Lượt truy cập
- Đang online: 0
- Hôm nay: 36
- Tất cả: 53660
